Rồi
ta sẽ hát khúc hoan ca
Và đôi cánh
cứ mãi vươn xa.
Lê Hựu Hà
Tối hôm chủ nhật
25.10.2009, Trung tâm Văn hóa Việt Nam phối hợp với cơ quan
Hàng không Vietnam Airlines đã tổ chức ở Paris một đêm văn
nghệ vũ khúc và ca nhạc cận đại Việt Nam mang tên Đêm
Sen. Sen là một bông hoa Việt quý trọng đã đành mà còn là
tượng trưng cho hảng Hàng không Việt Nam. Được biết đoàn
ca múa, trong khuôn khổ hoạt động văn hóa ở nước ngoài
nhắm hướng lễ kỷ niệm 1000 năm ngày thành lập thủ đô
Thăng Long – Hà Nội, trên đường đi trình diễn ở London,
được mời ra mắt khán giả ở Pháp một đêm độc nhất.
Dịp hiếm có lại được xem không mua vé giải thích Nhà hát
Gymnase Marie Bell đông nghịt khán giả, phần lớn dễ hiểu
là người Việt. Chương trình rất phong phú gồm có hòa nhạc,
những vũ khúc cận đại Múa Sen, Mưa hè, Ru con, Mùa gặt,
Thương nhớ Quê hương, Tiếng vọng Núi rừng, Bình minh trên
sông Hương, dựa lên truyền thống, xen lẫn với những màn
dân tộc Hoa Champa, Mưa trên Tháp cũ, Lữa tình Tây Nguyên,
một vở cổ kính tôn sùng đức Quan Âm ngàn mắt ngàn tay,
một bản huyền diệu đã từng làm xiêu lòng những chuyên
gia Nhật Bản đài NHK khi ghi hình ở Huế là điệu múa cổ
điển cung đình Lục cúng hoa đăng. Tất cả những vũ
sinh đều rất vui tươi, thân mình nở nang, tứ chi vạm vỡ,
nhảy múa uyển chuyển. Hai cô vũ sinh chuyên về ca hát mặt
mày duyên dáng, cô đảm nhiệm giới thiệu lại còn hoạt
bát, hóm hỉnh không kém anh bạn có phận sự trình bày bằng
Pháp ngữ. Áo quần các cô tùy theo màn là truyền thống hay
cận đại, y phục nào cũng thấy đẹp mắt, chứng tỏ với
một cơ thể cân đối thì ăn mặc thế nào cũng có phần
hấp dẫn. Những chiếc áo dài đỏ, vàng, trắng xóa tha thướt
tận chân trông như bướm lượn trên sông. Những áo ngắn
Chăm để lộ những cặp đùi cân đối cứng cáp của vũ
nữ chuyên nghiệp. Nam vũ sinh là những chàng trai lực lưỡng,
dân nông áo nâu mạnh mẽ, gởi về quá khứ hình ảnh những
thư sinh mảnh khảnh hồi trước, khăn đen áo dài, dù sao một
thời đã làm rung động tâm hồn phụ nữ dễ cảm xúc với
văn thơ. Những bản nhạc phần lớn mới nhưng tràn đầy
âm hưởng bài hát ba miền, điệu ca sắc tộc. Cũng dễ hiểu
vì những nhạc khí đều quen thuộc như trống, đàn tam, đàn
nhị, đàn trưng, đàn bầu, đàn môi, tỳ bà, khi thì đàn
đệm, khi thì hòa nhạc, có khi độc tấu tỏ ra nhạc công
đã đạt đến một mức chơi điêu luyện ít thấy. Những
điệu múa tuy biểu diễn với phong cách cận đại cũng phản
ánh cảnh tượng đất nước, đồng quê. Vốn quê gốc Huế,
sống lên thời trẻ nơi chốn thần kinh, tôi đặc biệt nhạy
cảm với nhã nhạc, múa cung đình.
Thật ra, đây không
phải là lần đầu tiên có múa cung đình trên sân khấu Paris.
Trước đây, chẳng hạn như đầu năm 2004, một đoàn ca múa
của Nhà hát Nghệ thuật Cung đình thuộc Trung tâm Bảo tồn
Di tích Cố đô Huế đã biểu diễn ở trụ sở Unesco trong
buổi lễ trao tặng bằng công nhận 28 kiệt tác là di sản
phi vật thể thế giới và truyền khẩu nhân loại, trước
khi trình bày chúc Tết kiều bào Paris, Lyon, Marseille, Bruxelles.
Giáo sư Trần Văn Khê từ mười năm trước đã là người
đã tích cực vận động Unesco nhìn nhận nhạc múa cung đình
Huế, hoan hỉ thành công "phần hồn" mười năm sau "phần xác"
tổng thể di tích Huế. Anh giải thích muốn được vậy, kiệt
tác không những phải có giá trị lịch sử và nghệ thuật
mà nhà nước sở tại còn phải chứng minh đã nỗ lực bảo
tồn và phát huy. Thật vậy, một kiệt tác phi vật thể có
nhiều nguy cơ bị hủy hoại và thất truyền, nhất là nhạc
múa cung đình ở nước ta ra đời thời lập quốc, từ thuở
tiền Lê qua các đời Lý, Trần. Song song với cuộc Nam tiến,
ảnh hưởng âm nhạc Chăm bắt đầu thâm nhập cung đình Việt
từ đây. Qua đời hậu Lê, Lương Đăng cùng với Nguyễn Trãi
định nhã nhạc cho triều đình, sắp đặt Đường thượng
chi nhạc giống như dàn nhạc Triều hạ yến hưởng
chi nhạc của nhà Minh. Đến thời các chúa Nguyễn, nhờ
có Đào Duy Từ tạo tiền đề, lập Hòa Thanh Thự, một hệ
thống âm nhạc cung đình Đàng Trong đã được hoàn chỉnh,
phong phú với các ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo.
Qua triều Tây Sơn tuy ngắn ngủi, cuộc tiếp xúc với triều
Thanh đem về cho cung đình nhiều nhạc khí mới : cổ, phách,
sáo, hồ cầm, huyền tử, song vận (nguyệt cầm), tỳ bà,
tam âm la...vang dậy với liên khúc mười bài ngự Thập
thủ liên hoàn nổi tiếng trong nhã nhạc cung đình An Nam
quốc nhạc sau đổi thành Việt Nam quốc nhạc và những bản
Lưu
thủy, Kim tiền trong nhạc thính phòng.
Thời kỳ vàng son
nhằm vào thời thịnh triều Nguyễn, với ảnh huởng Trung
Quốc, nhạc cung đình được phục hồi, chấn chỉnh, phát
triển mạnh cho đến ngày thất thủ kinh đô Phú Xuân năm
1885. Các loại Giao nhạc, Miếu nhạc, Yến nhạc, Ngũ tự
nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc,...
giao thoa với những tuồng cổ điển cung đình (thanh nhạc,
hát bội), thính phòng dân gian (ca đờn Huế). Vua Minh Mạng
cho xây dựng Nhà hát Duyệt Thị Đuờng, lập đội Nữ nhạc
ca với 50 ca sĩ, vũ nữ. Nhã nhạc, hát bội đạt đỉnh tối
cao dưới đời Tự Đức đặc biệt được biểu diễn ở
Minh Khiêm Đường, nhạc thơ được xướng họa ở Hiệu Thơ
Phòng. Nhạc công mặc áo vàng, thắt lưng màu xanh dương, đầu
bịt khăn. Vũ sinh mặc áo rộng thêu rồng, thắt lưng màu
xanh, đầu bịt khăn, tay cầm quạt xanh. Đến đời Bảo Đại,
những đội Đại nhạc, Tiểu nhạc vẫn còn dàn nhạc đa
dạng, một đằng kèn trống, bộ gõ (phách tiền, chuông to,
chuông nhỏ, đại la, tiểu loa, xập xỏa), một đằng nhạc
khí sáo trúc, dùng dây tơ (nhị, nguyệt hai dây, tam ba dây,
tỳ bà bốn dây). Bên cạnh lễ Tế Nam Giao ba năm một lần,
những đội nhạc múa cung đình còn có nhiệm vụ phục vụ
cho vua, hoàng gia, triều thần trong các dịp lễ tế Văn miếu,
Thế miếu, Thánh thọ, Vạn thọ, Tịch điền, Thiên thu, Thiên
xuân, Hưng quốc khánh niệm, Tứ tuần đại khánh, Ngũ tuần
đại khánh, đón tiếp sứ thần, kết hôn hoàng tử, công
chúa,...
Riêng về múa cung
đình, một di sản đặc sắc của văn hóa cố đô, nghệ thuật
rất phong phú nên có nhiều điệu, màu sắc phong cách khác
nhau : Tế giao (Tế ở đàn Nam Giao), Tứ linh (bốn
con thú thiêng liêng : long, ly, quy, phụng) , Song phụng (hạnh
phúc đôi lứa), Long hổ (rồng chân lý, chính nghĩa,
cọp bất nghĩa, phi nhân), Phiến vũ (nhân dịp yến tiệc,
múa quạt, mười nữ vũ), Mã vũ (nhân dịp lễ Hưng
quốc khánh niệm, múa người và ngựa), Tam tinh chúc thọ
(Phúc
Lộc Thọ, hiện thân ba cụ già), Nữ tướng xuất quân
(Hai Bà Trưng), Bát tiên hiến thọ (nhân dịp lễ Vạn
thọ, Thánh thọ, Tiên thọ, tám vị tiên dâng trái cây và
thuốc làm tăng tuổi thọ), Đấu chiến thắng Phật, Trình
tường lập khánh (múa Liễn, nhân dịp lễ Tứ tuần, Ngũ
tuần đại khánh của nhà vua, bốn tứ trụ thiên thần xuống
chúc thọ), Lân mẫu xuất lân nhi (múa đẻ lân, phân
đoạn bốn cảnh),... Trong số các điệu múa cung đình,
Bát
dật là điệu quan trọng nhất trong di sản nghệ thuật,
được biểu diễn nhân dịp lễ tế tại đàn Nam Giao do vua
đích thân chủ trì. Đội hình gồm có 64 vũ sinh, chia làm
hai ban múa võ và múa văn, mỗi ban có người cầm cờ điều
khiển, bên võ hiệu cờ tinh, bên văn hiệu cờ mao. Vũ sinh
võ đầu đội mũ khắc thiên, mặc áo song khai chàm lục, chân
mang hia. Vũ sinh văn đầu đội mủ tú tài, mặc áo giao lĩnh
màu xanh, chân mang hia. Vũ sinh đứng hai phía đông, tây đối
diện nhau. Khi nghe xướng Sơ hiến lễ, chuông đánh ba
tiếng, phường bát âm nổi nhạc, người điều khiển phát
cờ làm hiệu, tức thì các vũ sinh võ, tay trái cầm mộc,
tay mặt cầm phủ việt, vào dàn hai bên tả hữu ngoài thềm
dối diện nhau mà múa. Ba tiếng khánh kết thúc điệu múa,
vũ sinh trở về vị trí cũ. Một lần khác, khi nghe xướng
Á
hiến lễ và ba tiếng chuông, đến lượt vũ sinh văn vào
múa, tay trái cầm thược (ống sáo sơn son, bảy lỗ), tay mặt
cầm vũ (gỗ đầu có sọ con vật thần thoại gọi là thiên
hình, có ba lông gà). Sau nầy còn có Tuần hiến lễ, Chunghiến
lễ, cũng biểu diễn như vậy. Hình tượng múa gợi lên
hình bát quái.
Quang trọng bậc
nhì là Lục cúng hoa đăng, còn gọi tắt Lục cúng,
biểu diễn hôm Đêm Sen, một điệu múa bắt nguồn từ Phật
giáo, do các vị sư Ấn Độ truyền qua, sau nầy được sửa
chữa dưới thời Minh Mạng để biểu diễn trong mấy ngày
lễ. Như tên gọi, nội dung điệu múa gồm có sáu phần tượng
trưng cho sáu lần dâng cúng Phật. Các lễ vật là hương,
hoa, đèn, trà, quả và oản. Mỗi phần có một kiểu bước
khác nhau : kiểu chữ Nhật, kiểu chữ A, kiểu chữ Thủy,
kiểu chữ Vạn, kiểu cữ Điền, kiểu hoa hồi bốn cánh.
Mỗi phần có một khúc nhạc khác nhau, lời Hán Việt, toàn
bộ mang âm hưởng điệu tán trong âm nhạc Phật giáo : tán
hoa đăng, tán hương phù, tán hoa quả, tán trí đăng, tán Phật
điện, tán khế thủ. ... khúc nào cũng bắt đầu bằng
một câu khởi xướng và vũ sinh vừa múa vừa hát. Vì là
dâng cúng Phật, cách hát phải ngân nga, trầm bổng, điệu
múa phải dịu dàng, khoan thai. Sau mỗi khúc, nhạc công gõ
não bạt, đánh trống đổ hồi. Về trang phục, trên vai áo
của các vũ sinh có năm tua vải, tương trưng cho ngũ hành :
kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Họ mặc áo mã tiền, trong áo
lót màu lục, xiêm trường, quần giáp, giải quần màu hồng,
chàn quấn xà cạp, mang tất trắng, đầu đội mũ vàng tượng
trưng cho nhụy sen. Ở Huế đội múa có 48 vũ sinh, mỗi vũ
sinh cầm trên hai tay cây đèn hình hoa sen biểu hiện sự thanh
cao, tinh khiết và là cũng nơi đức Phật tọa thiền. Đó
là điểm độc đáo, đẹp mắt của điệu múa vì trong suốt
thời gian biểu diễn những ngọn đèn luôn tỏa sáng lung linh
gây ra một cảnh tượng huyền ảo. Ngoài ra, điệu múa còn
được dàn dựng công phu, đầy tính sáng tạo, hình tướng
khác nhau với phương pháp chồng người. Chẳng hạn,
trong cảnh Cổ la liệt, ba nam vũ sinh dàng hàng ngang gác
tay lên vai nhau và dang tay ở hai đầu hàng ngang ; người đứng
giữa làm trụ cõng người thứ tư lên vai, hai người thứ
năm và thứ sáu ngồi trên những cánh tay gác lên vai của
những người đứng dưới. Trong cảnh Cổ giá hoàng,
người thứ tư đứng thẳng trên vai người đứng giữa làm
trụ. Còn trong cảnh Cổ tướng hào, ba người đứng
thành hàng ngang và ba người khác đứng trên vai ba người
nầy....Hiện nay, múa cung đình đang được trình diễn thường
xuyên tại nhà Duyệt Thị Đường trong Thành Nội và Minh Khiêm
Đường ở Khiêm Lăng, để phục vụ khách du lịch trong nước
và quốc tế.
Trong buổi trình
diễn Đêm Sen ở Paris, số vũ sinh chỉ giới hạn lại còn
chín người nhưng bản chất điệu múa đã được diễn tả.
Dù biểu diễn với một phong cách mới, cận đại hơn, trong
điệu Lục cúng hoa đăng cũng như trong các điệu múa
khác, những nghệ sĩ trẻ đã tỏ ra thiết thân với nghệ
thuật múa nói chung, múa cung đình Huế nói riêng. Khi tìm về
truyền thống dân tộc, bản sắc văn hóa cội nguồn, các
nghệ nhân cũng như những nhà trách nhiệm, nghệ sĩ ưu tú
Trưởng đoàn Trần Bình hay nghệ sĩ ưu tú Giám đốc Nhà
hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình La Thị Cẩm Vân, đẵ
đóng góp tích cực vào cuộc bảo tồn một di sản văn hóa
trong kho tàng nghệ thuật Việt Nam và viết vào lịch sử nhạc
múa nước nhà những trang sử quí giá.
Xô
thành đầu hè 2010
Tham khảo
- Võ Quê, Nghệ
thuât múa cung đình Huế, tieulun.hopto.org
- Trọng Bình, Múa
cung đình Huế - Một giá trị nghệ thuật, Nhà hát Nghệ
thuật Truyền thống Cung đình Huế, nhanhac.com.vn
- Lê Tấn Quỳnh,
Múa
cung đình Huế - Một cánh cửa ra thế giới, Việt Báo
21.07.2007
- Hoàng Chương,
Về
nhã nhạc cung đình Huế - Di sản phi vật thể và truyền khẩu
nhân loại, www.cpv.org.vn 30.10.2009
- Hữu Thái - Tuyết
Hoa, Nhạc cung đình Huế diễn ở Unesco, Tuổi trẻ Online
30.10.2009
- Trần Văn Khê,
Giá
trị của nhạc cung đình Huế, tapchisonghuong.com.vn 01.11.2000
|