Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về  ]                 [  Mục Lục  ]

Việt Nam Văn Hiến Ngàn Năm

*

9. Thời Tiền Nguyễn (1558-1777) 
-
hay Hai thế kỉ hình thành
và bước đầu hưng khởi của văn hóa Phú Xuân

Lê Văn Hảo

"..."Sau dải Núi Ngang là nơi dung thân muôn đời".
Nguyễn Hoàng (trị vị Đàng Trong 1558-1613) đã thấu hiểu điều đó ..."
 
Cuộc mở cõi lớn lao tiến về Nam

Sự nghiệp mở cõi của các chúa Nguyễn bắt đầu với lời tiên tri của Trạng Trình : "Sau dải Núi Ngang là nơi dung thân muôn đời". Nguyễn Hoàng (trị vị Đàng Trong 1558-1613) đã thấu hiểu điều đó. Vào trấn giữ Thuận Hóa rồi kiêm lãnh Quảng Nam, ông cùng con cháu củng cố vùng đất mới, đánh lùi các cuộc tiến công tới từ phía Bắc và mở rộng dần lãnh thổ về phương Nam tới tận mũi Cà Mau.

Phải nói rõ là nhờ các chúa Nguyễn mà lãnh thổ Đại Việt đã được nhân đôi trong thời khoảng một thế kỉ : 1611-1714.

1611 : Nguyễn Hoàng vượt đèo Cù Mông mở đầu bước chân Nam Tiến, Đàng Trong có thêm dinh Trấn Biên.

1653 : Nguyễn Phúc Tần tiến tới tận vùng Phan Rang-Phan Rí, lập trấn Thuận Thành, rồi dinh Bình Khang.

1698 : Nguyễn Hữu Cảnh vào cai quản đất Gia Định, rồi làm chủ toàn vùng Đông và Tây Nam Bộ.

1714 : Mạc Cửu, cựu tướng nhà Minh, có công khai thác đất Hà Tiên rồi xin chúa Nguyễn Phúc Chu cho sáp nhập vào phủ Gia Định ; chúa chấp nhận sự thần phục của Mạc Cửu. Niên đại đầu thế kỉ 18 này là một dấu son trong lịch sử dân tộc với ý nghĩa chuyến đi dài mở cõi của ông cha ta đã mỹ mãn thành công.
 

Từ hệ thống Lũy Thầy tới Hỗ Trướng Khu Cơ

Năm 1627 Nguyễn Phúc Nguyên tri ngộ và trọng dụng Đào Duy Từ, gọi người hiền tài này là Thầy. Và họ Đào tỏ ra là bậc quân sư kiệt xuất, toàn tài văn võ, vừa làm thơ và viết binh thư, vừa đôn đốc xây thành đắp lũy giúp chúa biến Đàng Trong thành miền đất không thể xâm phạm. Trong gần nửa thế kỉ giao tranh dữ dội với chúa Trịnh (1627-1672), chúa Nguyễn đã giữ vững cơ đồ và liên tục tiến về Nam, phần lớn nhờ vào một công trình phòng ngự vô địch và một bộ binh thư bất hủ.

Người dân Đàng Trong gọi hệ thống thành lũy phía Nam sông Gianh là Lũy Thầy để tỏ lòng tôn kính Đào Duy Từ như bậc thầy của chúa, của vua. Hệ thống này gồm bốn tòa lũy : đích thân Thầy xây hai lũy Nhật Lệ và Trường Dục (1630-1631), còn hai lũy kia do học trò của Thầy là danh tướng Nguyễn Hữu Dật thực hiện (1634, 1661).

Lũy Nhật Lệ (còn gọi là lũy Đồng Hới) dài 12 km, cao 6 m, phía ngoài kè gỗ lim, mặt trong đắp đất, voi ngựa có thể đi bên trên, lại có thêm nhiều pháo đài đặt "súng quả sơn" (loại pháo cổ bắn cầu vồng). Cách đó 20 km về phía Nam là lũy Trường Dục, dài tới 20 km, cao 3 m, chân lũy rộng từ 6 đến 8 m.

Hai trăm năm sau Đào Duy Từ, vua Thiệu Trị hành hương qua hệ thống Lũy Thầy hùng vĩ này đã xúc động đặt thêm cho nó cái tên mới "Định Bắc trường thành" để nhớ ơn tổ tiên đã giữ vững cõi Nam.

Cùng với thành lũy, có một công trình lớn lao khác của Thầy là cuốn Hỗ Trướng Khu Cơ (Bàn về những vấn đề then chốt trong công việc làm tướng), tiếp nối truyền thống Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo. Với bộ binh thư mới này, Đào Duy Từ đã tiến xa hơn người xưa nhiều với sự phân tích bốn phương pháp đánh giặc rất lợi hại : phép dùng hoả công, phép đánh dưới nước, phép đánh trên bộ, phép giữ thành trì.

Một ví dụ cụ thể : khi bàn về hoả công, Thầy đã dạy cho quân đội chúa Nguyễn những cách làm diều lửa đốt trại giặc, làm trái phá (hoả cầu), chế quả mù (để ngụy trang và nghi binh), chế đạn lửa bằng đồng, chế tên lửa (hoả tiễn) kể cả tên lửa chứa thuốc độc, v.v. Vì những sáng tạo kỳ lạ đó, Hỗ Trướng Khu Cơ cũng đáng được coi là một bức trường thành thời mở cõi.
 

Đầu thế kỉ 17-cuối thế kỉ 18, văn hóa Phú Xuân hình thành và bước đầu hưng khởi

Lúc đầu dinh phủ các chúa còn ở vùng Bắc Thuận Hóa. Năm 1636, Nguyễn Phúc Lan dời phủ về Kim Long (ngoại ô Huế). Năm 1687, Nguyễn Phúc Thái dời phủ từ Kim Long về Phú Xuân (thành phố Huế ngày nay).

Như vậy là vào đầu thế kỉ 17 văn hóa Phú Xuân hình thành. Từ 1687 tới 1777 (đời các chúa thứ 5, 6, 7, 8, 9), văn hóa Phú Xuân bắt đầu hưng khởi và sẵn sàng chờ đợi được lọt vào mắt xanh một người anh hùng "áo vải cờ đào". Và cũng từ đó, song song với văn hóa Thăng Long, dân tộc Việt Nam có thêm văn hóa Phú Xuân.

Trong lãnh vực văn học cổ điển, có thể ghi nhớ ghi nhớ nhiều tên tuổi :

- Đào Duy Từ (1572-1634) với hai bài vãn Ngọa Long Cương, Tư Dung và tuồng Sơn Hậu.

- Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) với truyện thơ Nôm Sãi Vãi và tập thơ chữ Hán Đạm Am.

- Hoàng Quang (không rõ năm sinh, năm mất) với Hoài Nam ca khúc (Khúc ca tưởng nhớ phương Nam), một áng văn Nôm ca ngợi sự nghiệp các chúa từ Nguyễn Hoàng tới Nguyễn Phúc Khoát.

Trong khi truyện Nôm xuất hiện dồi dào ở Đàng Ngoài thì Đàng Trong cũng có hai tác phẩm Nôm rất bình dân: truyện Song Tinh Bất Dạ và vè Chàng Lía.

- Tác giả truyện thơ Nôm Song Tinh Bất Dạ, dài 2216 câu lục bát, là Nguyễn Hữu Hào (?-1713). Đọc được cuốn tiểu thuyết Tàu nhan đề "Những người có tình gắn bó", ông đã tái tạo nguyên tác thành câu chuyện tình say đắm và chung thủy của một đôi trai gái Việt. Chủ đề Song Tinh Bất Dạ thật ra không đặc sắc gì lắm nhưng nó đáp ứng trào lưu nhân đạo chủ nghĩa ở thế kỉ 18 và phản ánh được khát vọng giải phóng tình cảm, tự do luyến ái vượt ra khỏi những trói buộc của lễ giáo Khổng Mạnh khắt khe.

- Bình dân hơn Song Tinh Bất Dạ và được phổ biến rộng rãi khắp Đàng Trong là áng vè Chàng Lía hoành tráng, gồm 1.500 câu thơ lục bát rất lôi cuốn:

Truyện Lía nay kể như y
Góp vui cô bác những khi việc rồi
Cảm động thay hình tượng chú Lía sớm mồ côi cha, đi ở đợ, giữ trâu, mới 16 tuổi đã giỏi võ nghệ, lấy của kẻ giàu chia cho người nghèo, quyết định đem quân đánh thẳng vào phủ chúa rồi anh dũng hi sinh để lại cho quần chúng niềm tiếc thương vô hạn.

- Có một nhà thơ lớn thời Tiền Nguyễn là Ngô Thế Lân, sống ở thế kỉ 18 (không rõ năm sinh, năm mất), tác giả Phong Trúc tập (Gió lùa trong khóm trúc) đã được Lê Quý Đôn rồi Phan Huy Chú khen ngợi vì những vần thơ súc tích, giàu cảm xúc và giá trị hiện thực: thơ Ngô Thế Lân nói nhiều tới các loại ruồi, muỗi, cọp, sói, kình, ngạc, là những giống "thích ăn thịt người" trong một xã hội tàn bạo, đầy bất công.

Đàng Trong không có một tác phẩm qui mô lớn mang âm hưởng anh hùng ca như Hoàng Lê nhất thống chí của Đàng Ngoài, nhưng văn hóa Phú Xuân đã để lại cho chúng ta một công trình văn sử quan trọng bằng chữ Hán là cuốn Nam Triều công nghiệp diễn chí (Truyện chí diễn giải công trạng và sự nghiệp của Nam Triều) của Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1736) viết vào năm 1719 mà mãi tới năm 1990 mới được dịch và in lần đầu dưới nhan đề Mộng bá vương.
 

Một hội tao đàn ở phương Nam : Chiêu Anh Các

Đây là một tổ chức văn học-văn hóa do Mạc Thiên Tích (1706-1780) sáng lập năm 1736 tại Hà Tiên, tập hợp được 32 thành viên. Sáng tác của Chiêu Anh Các gồm khoảng mươi tác phẩm mà nổi tiếng nhất là Hà Tiên quốc âm thập vịnh (gồm 320 bài thơ Nôm vịnh mười cảnh đẹp Hà Tiên của 32 tác giả) in năm 1737.

Thơ văn Chiêu Anh Các hầu hết là thơ văn xướng họa đề vịnh thiên nhiên với những đặc điểm là tính ước lệ, phong cách khoa trương, thi vị hóa cảnh vật, mượn thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng thoả mãn tự hào của những người may mắn được sống trên một vùng đất mới giàu đẹp.
 
Hai thành tựu mỹ thuật của văn hóa Phú Xuân

Trước khi có đỉnh đồng của các vua Nguyễn vào đầu thế kỉ 19, các chúa Nguyễn đã cho đúc vạc đồng vào giữa thế kỉ 17.

Trong và ngoài thành phố Huế ngày nay còn lại 10 chiếc vạc thời các chúa, đặc biệt là ở Tả Vu và Hữu Vu điện Cần Chánh, ta thấy hai chiếc vạc lớn nhất với đường kính miệng 2,20 m, cao 1,30 m, nặng hơn một tấn, có ghi niên đại 1660 và 1662 (đời Nguyễn Phúc Tần).

Nếu Đàng Ngoài có tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng, v.v. thì Đàng Trong có tranh Sình, tức là dòng tranh do nghệ nhân làng Sình (ngoại ô Huế) sáng tác.

Tranh Sình gồm hai loại : tranh thờ và tranh thế sự. Những tranh thờ nổi tiếng là tranh Mẫu Thoải (thủy cung), Mẫu Thượng Ngàn cưỡi voi, v.v. Tranh thế sự gồm những bức tranh có giá trị thưởng ngoạn thẩm mỹ như tranh Tố nữ, tranh các nhạc công của dàn nhạc Bát Âm, v.v.
 

Năm danh nhân thời Tiền Nguyễn

Danh nhân văn hóa ưu việt nhất của Đàng Trong đầu thế kỉ 17 là Đào Duy Từ. Chúng ta đã thấy ông góp phần to lớn vào việc xây dựng cơ đồ chúa Nguyễn và sự hưng khởi bước đầu của văn hóa Phú Xuân, cần nói thêm rằng vì đã có công phát triển hát bội ở vùng Bình Định và dạy ca múa nhạc trong phủ chúa nên họ Đào đã được thờ như một trong những tổ sư của nghệ thuật sân khấu và âm nhạc truyền thống tại đền Thanh Bình ở Phú Xuân-Huế xưa nay.

Một trong vài chúa Nguyễn tài giỏi là Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1691-1725) ngoài công lao mở cõi như đã nói trên, ông còn có những hoạt động văn hóa và tôn giáo đáng kể như sửa chùa Thúy Vân, chùa Thiền Lâm, tôn tạo chùa Thiên Mụ, mời danh sư Thích Đại Sán của Trung Quốc sang thăm Phú Xuân… Những việc ấy đã góp phần vào công cuộc phục hưng Phật giáo Đàng Trong.

Đóng góp nhiều nhất cho văn hóa Phú Xuân có lẽ là Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765), còn gọi là Võ Vương, cho đúc ấn Quốc Vương (1744), tiến hành thay đổi phong hóa và trang phục Đàng Trong cho khác với Đàng Ngoài (cấm phụ nữ không được mặc váy yếm, phải thay bằng quần dài, áo dài, v.v.), đổi chính dinh Phú Xuân ra đô thành Phú Xuân, xây dựng thêm hai bên bờ sông Hương nhiều cung điện lầu gác, biến phủ chúa thành một triều đình qui mô đồ sộ mà Lê Quý Đôn đã mô tả lại phong phú trong Phủ biên tạp lục.

Chúa còn trọng dụng nhiều người nước ngoài, nhất là các giáo sĩ, ở cương vị ngự y, cố vấn như Jean Koffler, Charles Slamenski… và vui vẻ đón tiếp những doanh nhân nước ngoài năng động như Pierre Poivre, v.v.

Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) có công rất lớn trong sự nghiệp khai mở các vùng đất phương Nam. Năm 1698, được đề bạt làm thống suất kinh lược sứ để cai quản xứ Gia Định và chỉ sau một năm nhậm chức ông đã chiếm lãnh toàn vùng Nam Bộä, thiết lập đầy đủ các đơn vị xã huyện, chăm lo cho dân an cư lạc nghiệp. Sau khi ông mất, nhân dân nhiều nơi ở phủ Gia Định và đồng bằng sông Cửu Long đã tôn thờ Nguyễn Hữu Cảnh là thành hoàng.

Một danh nhân khác có địa vị xã hội khiêm tốn, đó là Nguyễn Văn Tú, người thợ rất mực tài hoa, sống vào cuối thế kỉ 17, đầu thế kỉ 18. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục cho chúng ta biết : thời trẻ, Nguyễn Văn Tú đã chu du Hòa Lan và học thành thạo nghề làm đồng hồ và kính thiên văn. Năm 1716, Nguyễn Phúc Chu triệu ông vào phủ chúa để sửa đồng hồ. Ông khéo léo trổ tài làm chúa hài lòng rồi nhiệt tình nâng đỡ cho nên sau đó ông đã chế tạo thành công đồng hồ báo giờ báo ngày và được nhà chúa phong tặng chức danh vẻ vang "thủ hợp chiêu tài Nam" (một người Nam có bàn tay làm ra nhiều của cải).

Lê Văn Hảo
(Paris)


 [  Trở Về  ]