Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]


 
MỘT HỒN THƠ LỘNG GIÓ TRỜI NAM

(trích đoạn)

Lê Xuâni 

Trời Nam xanh gió vô tư nắng
                                                           Mây thả bao la mỏi mắt nhìn
(...)

Với Gửi gió trời Nam, tác giả đứng ở nhiều góc độ để quan sát, nhìn nhận, cảm xúc về con người và cuộc sống. Từ đó tình cảm thăng hoa bật lên những vần thơ khi trầm ngâm sâu lắng, khi reo vui rộn rã. Anh là người đi nhiều, chiêm nghiệm nhiều, nên biết bao sự việc, cảnh tình, tên đất, tên làng, tên núi, tên sông suốt chiều dài đất nước như ùa vào thơ. Đặc biệt là những bài thơ viết về đất và người, cảnh sắc vùng sông nước miệt vườn ở vùng đồng bằng châu thổ Tây Nam của Tổ quốc, nơi được coi như quê hương thứ hai của anh. Những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp được anh ghi lại như một ký hoạ bằng thơ đầy sắc màu của cuộc sống. Đây là cảnh sắc Bảy Núi hùng vĩ, biển Ba Động nên thơ, kia là rừng tràm Trà Sư hoang dã, núi Cấm trầm mặc, Thạch Động uy nghiêm, mũi Cà Mau sóng vỗ, bưng biền Đồng Tháp mênh mang... Những rung động khẽ khàng, rất vi mô trong cõi lòng sâu thẳm bỗng bật  thành thơ. Dòng sông Hậu hiền hòa in hình cô gái Nam Bộ chèo xuồng ba lá, áo bà ba bay trước gió làm thổn thức hồn thơ anh:

Dòng sông thì rộng mênh mông
Áo em lại thắt eo hông làm gì
Khen ai khéo chiết đường ly
Để cho tà áo thầm thì lời quê.
                               (Áo bà ba).
Một chút "Hương cau" của làng quê phả vào "Tiếng đờn đêm trăng" làm lung linh một "Huyền diệu trăng". Có lúc anh "Lặng thầm" trước "tóc vờn bay trong gió" của cô gái xứ dừa Bến Tre: Hồn anh chỉ còn em và sông nước/ Với dừa xanh - những chiếc lược cài mây/ Em đừng nói về con sóng ngược/ Để hương dừa thơm mãi trong tay (Mái tóc hương dừa).

Những hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình đã trở thành ước lệ trong thơ xưa, anh không bị sa vào đó. Anh có cách cảm nhận riêng về một "Đêm vùng lũ", "Cánh đồng mùa lũ", "Khói đốt đồng", "Bông súng", "Những dấu chân xanh", "Tây Đô xanh" hay những mùa nước nổi: Cuối mùa trào dâng nước lũ/ Tha La, Trà Sư trắng xóa đập tràn/ Mưa trắng đất, trắng trời vần vũ/ Hòn Đất, Kiên Lương ngập chứa chan  (Tứ giác trắng).
(...)
Những dòng thơ chân tình nhất, chia sẻ nỗi đau với người nghèo khổ làm rưng rưng lòng người đọc. Người nông dân trong ngày lũ, người tàn tật, bất hạnh và những ngang trái của cuộc đời. Anh nghẹn ngào, thương tâm đến thắt lòng trước cảnh cực khổ của những người nông dân luôn phải "sống chung với lũ": Mỗi năm một mùa nước nổi/ Chạy lũ như dân du thuyền/ Lênh đênh dẫu biết nguồn cội/ Lũ dâng ngập nửa mái hiên... (Làng mới vượt lũ). Song, trước những cảnh tượng ấy, ta không hề thấy trong thơ anh có tiếng kêu não nuột, bi lụy, tuyệt vọng nào trước gian khó cuộc đời. Anh hướng nhân vật trữ tình biết vượt khó hôm nay vì vững tin ở ngày mai, hướng tới sự lạc quan trong cuộc sống: Ngựa ô xưa khớp kiệu vàng/ Anh rong xe máy về làng đón em/ Tơ vàng ươm nắng ngõ quen/ Phù sa sau lũ rực lên ánh vàng. (Vàng trên đất lũ). Con người Nam Bộ vốn chân tình, bộc trực mà hào phóng, trọng nghĩa khinh tài, tự tin, yêu đời từ thuở xưa đi mở cõi. Với mùa lũ, mùa nước nổi họ vẫn coi như một quy luật, một lẽ đương nhiên của trời đất, như chuyện thường ngày, và luôn luôn chủ động đón nhận trong mọi hoàn cảnh. Đó là cái chất hiếm, đáng quý mà không phải cư dân vùng nào cũng có được: Ngày mai lũ cuối mùa nắng sáng/ Đồng quê thơm đất mới bưng biền/ Điên điển lại vươn cành trên đất lũ/ Giữ cho đời hương sắc Cửu Long Giang ( Mùa hoa điên điển).

Một đề tài mà anh rất tâm đắc là tình yêu- đề tài vĩnh hằng, biết bao nhà thơ trên thế gian này đã viết. Thơ tình Bùi Văn Bồng bộc lộ tình yêu chân thật, trẻ trung, say đắm và hết sức hồn nhiên, vô tư. Nhìn cô gái Nam Bộ mặc áo bà ba, chèo xuồng ba lá trên dòng Hậu Giang, anh như bị hút hồn: Chẳng ai chuốc rượu đưa men/ Mà sao ra bến lại quên lối về (Áo bà ba). Đôi khi, cũng như bao người đang yêu khác, anh không lý giải được tình yêu, và cứ tự vấn: Tình yêu là gì nhỉ/ Bắt em chơi trốn tìm/ Hạnh phúc nào bình dị/ Mà rung hoài con tim? (Lặng thầm). Nhiều khi anh trở về với những kỷ niệm quê nhà một thời trai trẻ, nhớ đến những kỷ niệm của "cái thuở ban đầu": Vườn nhà còn ngát hương cau/ Giờ em đang ở nơi đâu cuối trời?/ Mảnh mai chiếc lá vàng rơi/ Cánh chim lạc gió về nơi mưa chiều. (Hương cau).

Anh có nhiều thành công với những bài thơ mang đậm tình quê, những bài thơ bày tỏ tấc lòng trước nỗi đau của những mảnh đời bất hạnh. Nó có chiều sâu trí tuệ và giàu tính nhân văn. Ngôn từ và hình ảnh như chảy ra từ gan ruột để bật thành thơ: Em đi buổi ấy chiều im gió/ Lặng phắc cây vườn lặng bến sông/ Anh chạnh lòng trước dáng hình thon nhỏ/ Mà đường xa biết mấy nẻo gập ghềnh? (Chiều lặng gió)

Thơ Bùi Văn Bồng có nỗi đau nhân tình thế thái, có buồn vui cùng muôn kiếp nhân gian, có hoài bão, khát khao về một tình yêu lớn, có suy tư, trăn trở trước nghịch cảnh cuộc đời. Anh đến với thơ như một sự tình cờ, không chủ định nhưng khá thành công. Đúng như nhà văn Nam Cao đã nói: "Hãy sống đã rồi hãy viết". Có vốn sống thực tế phong phú, nhưng trên hết anh có một tấm lòng rộng mở đón gió bốn phương, luôn nhìn, ngắm, suy tư, xúc cảm chân tình để bật lên những điệu tâm hồn cộng hưởng, thăng hoa  cùng con người và cuộc sống nên thơ anh đậm tính nhân văn. Bạn đọc tin rằng đường thơ Bùi Văn Bồng còn rộng mở và bước xa hơn nữa. Ngôn ngữ thơ anh được chọn lọc khá kỹ, mang tính phổ thông hoá và giàu sắc thái Nam Bộ. Hy vọng tập thơ Gởi gió trời Nam sẽ đem đến cho bạn đọc sự lắng đọng sâu sắc, những cảm xúc và ghi nhận mới mẻ khó quên.

( trích lới giới thiệu của LÊ XUÂN)


 [  Trở Về  ]