Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ]
Trăm = 100 ? ba mươi sáu = 36 ?
Nguyễn Dư * Trăm = 100 ? ba mươi sáu = 36 ? - Nguyễn Dư
* Trở lại vấn đề Hà Nội băm sáu phố phường - Tam thập lục kế - NguyênLạc
* Hà Nội băm sáu phố phường- Nguyễn Dư trả lời
Trong số những ngôi chùa cổ ít được các sách nói tới có chùa Trăm Gian thuộc tỉnh Hà Tây. Chùa tọa lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, trên một quả đồi cao khoảng 50m, xung quanh có nhiều cây cổ thụ. Chùa có tên chữ là Quảng Nghiêm Tưï , được lập từ đời Lý Cao Tông, niên hiệu Trinh Phù thứ 10 (1185).
Đến đời Trần, có hòa thượng Bình An, quê ở Bối Khê tu ở đây được người đời gọi là Đức Thánh Bối. Chùa gọi là Trăm Gian vì có 100 gian theo cách tính 4 cột là một gian.
Ở sân chùa có gác chuông hai tầng tám mái được dựng vào năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Hòa, đời Lê Hy Tông (1693), là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao..
Chùa còn giữ được nhiều di vật, đồ tế khí và tượng quý.
Đây là ngôi chùa đẹp về mặt kiến trúc và khung cảnh thiên nhiên, nên ca dao đã có câu:
Đình So, quán Giá, chùa Thầy," Trăm gian ", cái tên rất bình dân, dường như muốn nói lên vẻ "bề thế " của ngôi chùa. Nhưng có đúng là chùa có tới 100 gian theo cách tính 4 cột là một gian như Võ Văn Tường giới thiệu không ?
Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm Gian(1)Nhìn tấm ảnh chụp chùa và gác chuông thì khó mà tưởng tượng được rằng chùa Trăm Gian có nhiều gian và cột đến thế .
Chúng ta hãy tạm rời chùa Trăm Gian, đi thăm một ngôi chùa khác, chùa Ninh Phúc ( tỉnh Hà Bắc ), và thử so sánh kiến trúc của hai chùa, để tạm rút ra một kết luận.
Chùa Ninh Phúc thuộc làng Bút Tháp là " một ngôi cổ tự còn lại ở miền Bắc Việt Nam, đứng vào hàng quy mô dài lớn nhất hiện nay và nổi tiếng về những tác phẩm điêu khắc và kiến trúc (... ). Phần chính của chùa nằm trong một khuôn viên chữ nhật ngang 40m, dài 80m (...). Chín tòa chùa sắp hàng hai bên hành lang dài như hai dãy phố, cộng tất cả 112 gian "(2).
Chăm chú đếm trên bức họa đồ của chùa thì thấy mỗi dãy hành lang có được 27 gian. Mỗi gian gồm " 4 cột ". Nhưng chỉ có cột đứng ở góc mới hoàn toàn là của một gian, các cột khác, tuỳ theo vị trí, được đếm nhiều lần. Nếu trừ ra hai dãy hành lang, tất cả phần còn lại của chùa Ninh Phúc, gồm 9 tòa chùa cộng với tam quan, gác chuông, bảo tháp, chỉ còn 58 gian.
Chùa Trăm Gian có mấy toà ? Tấm ảnh chụp mặt trước của chùa chỉ cho thấy một tòa, với một hàng cột gồm 8 cái. Chùa Trăm Gian bé hơn chùa Ninh Phúc, chúng ta cứ giả thử là chùa được xây theo kiểu "nội công ngoại quốc ", tức là có hai tòa ngang và một tòa dọc. Chùa không có hành lang " dài như hai dãy phố ", thì làm thế nào để dựng được 100 gian trong 3 tòa ? Ngược lại, nếu chùa có 100 gian thật thì trong lòng chùa sẽ chi chít cột, giống như bàn đinh của thầy phù thuỷ. Không dễ gì tìm ra chỗ để đặt bàn thờ và đón tiếp khách thập phương đến lễ Phật !
Tôi mang thắc mắc của mình đi dò hỏi xung quanh. Một bác lớn tuổi, đã có lần đến thăm chùa Trăm Gian, cười nói : " Làm gì tới ! Nhiều thì người ta gọi là trăm cho gọn, cho to ! ".* Trăm gian chỉ có nghĩa là có nhiều gian thôi.
Tiếng " trăm " ( tiếng hán việt là bách ) hay được dùng một cách khái quát để chỉ số nhiều. Trăm không phải là một số đếm chính xác. Trăm không có nghĩa là một trăm ( 100 ).
Xưa kia, nhiều làng lập hội " bách nghệ " ( trăm nghề ). Những người làm cùng nghề ( thợ mộc, thợ nề ... ) tập họp thành hội, hàng năm tổ chức lễ thánh sư ( ông tổ của nghề ), ăn uống vui chơi. Ai ở trong hội gặp khó khăn, túng bấn thì hội sẽ giúp đỡ. Hội bách nghệ thật ra chỉ quy tụ vài nghề. Chưa nghe nói có làng nào chuyên làm quá hai, ba chục nghề khác nhau.
Hàng năm nhiều làng quê miền Bắc mở hội, tổ chức nhiều trò chơi. Các trò chơi, tuy chỉ có độ mươi, mười lăm trò nhưng cũng được gọi là "bách hí " (trăm trò vui).
Ngày nay ta có nhiều " trăm " và " bách " lắm.
Ta có 3 trường đại học Bách khoa ( trăm môn ). Người Pháp khiêm tốn hơn, họ chỉ có trường Đa khoa (Polytechnique ) thôi.
Tại các thành phố lớn, những lúc nhàn tản, người ta đi bách bộ ( trăm bước ), ngắm nhìn các cửa hàng bách hoá ( trăm món hàng ). Nếu kể hết các mặt hàng lặt vặt, từ cái kim, cuộn chỉ, cục phấn, thì đôi khi cũng lên đến 100 thật đấy.
Những hôm trời nóng bức ai chả thích đi dạo vườn bách thú (trăm giống thú vật ), bách thảo ( trăm thứ cây ), hay vào công viên ngắm " trăm hoa đua nở " để quên đi " trăm cay nghìn đắng " của cuộc sống hàng ngày.
Tục ngữ, thành ngữ cũng thích dùng chữ " trăm " :
Trăm hay không bằng tay quen." Trăm " và " bách " được dùng từ bao giờ ? Chắc chắn là từ lâu lắm rồi. Từ cái ngày người Tàu gọi vài chục học giả nổi tiếng thời Xuân Thu là " Bách gia chư tử ". Cũng có thể là từ ngày bà Âu Cơ đẻ ra " trăm trứng ".
Trăm voi không được bát nước xáo.
Trăm bó đuốc cũng vớ được con ếch.
...Còn một con số khác cũng thường gặp trong văn học là số ba mươi sáu ( 36 ). Một con số thật chính xác nhưng nghĩa thì lại mù mờ!
Nổi tiếng nhất là " Hà Nội băm sáu phố phường ". Nhiều người trong chúng ta đã được đọc tập bút ký nổi tiếng của Thạch Lam, viết năm 1943, mang tựa đề này. Trước Thạch Lam đã có bài thơ nói về phố phường Hà Nội như sau (3) :
Rủ nhau chơi khắp Long thành,Thơ và văn đều nói " Hà Nội 36 phố phường ". Hà Nội ngày xưa chỉ có 36 phố thôi à ? Điều đó có đúng không ? Chắc là sai !
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,
Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giày,
Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn,
Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Than,
Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Ngang, hàng Đồng,
Hàng Muối, hàng Nón, Cầu Đông,
Hàng Hòm,hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,
Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,
Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà,
Quanh đi đến phố hàng Da,
Trải xem phường phố, thật là cũng xinh.
Phồn hoa thứ nhất Long Thành,
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ.
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền.Chỉ cần đọc câu ca dao:
Hà Nội băm sáu phố phườngcũng đã thấy hai phố, hàng Gạo và hàng Đường, không có tên trong bài thơ. Và còn rất nhiều phố nổi tiếng khác như hàng Lọng, hàng Quạt, hàng Đẫy, hàng Trống, hàng Bột, hàng Kèn, hàng Bún ... cũng bị bỏ quên.
Hàng Gạo, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh.Trong công trình nghiên cứu lịch sử của " Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội ", cụ Hoàng Đạo Thúy đã đưa ra một loạt tên của 63 phố (4). Có thể vẫn chưa đủ vì danh sách của cụ còn thiếu phố Trường Thi (nơi tổ chức các kỳ thi ) và phố Trường Tiền ( nơi có sở đúc tiền ngày xưa ). Như vậy, có thể nói rằng thành phố Hà Nội cổ phải có từ 65 phố trở lên.
Nhưng tại sao lại nói là " Hà Nội băm sáu phố phường " ? Con số 36 mang ý nghĩa gì ?
Đào Duy Anh nhận xét rằng ba mươi sáu là " số nhiều hữu hạn chỉ toàn bộ " (5). Theo Hoàng Xuân Hãn thì " số ba mươi sáu là một phương-số mà người Á Âu đều coi là có đặc tính huyền bí " (6).
Có thể vì vậy mà tác giả của bài thơ đã cố ý chỉ kể tên 36 phố, để làm tăng vẻ đẹp, nét thơ mộng của thành phố Hà Nội năm xưa ?
Chúng ta còn gặp con số 36 ở nhiều chỗ khác.
Giáng Kiều khuyên Tú Uyên (truyện Bích Câu kì ngộ) nên chọn cảnh tiên giới, xa lánh trần gian:Vẩn vơ trong áng phồn hoa
Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân?Toàn bộ cõi tiên ở trên núi gồm ba mươi sáu động. Núi nào, ở đâu, không ai biết được.
Trong một tình huống khác, nàng Kiều cũng gặp con số vu vơ này:
Thừa cơ lẻn bước ra điSở Khanh dùng lời người xưa "tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách" ( trong 36 chước, chạy là hay hơn cả) để dụ dỗ Kiều trốn khỏi lầu Ngưng Bích. Đố ai kể rõ được 36 chước là những chước gì, hay ho như thế nào?
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn ?Bát Giới học được 36 phép biến hóa. Nhưng Tề Thiên còn giỏi gấp đôi Bát Giới, học được 72 ( hai lần 36) phép thần thông ( Tây du kí ). Cả hai vị đều chưa thi thố hết tài năng nên chúng ta đành chịu, ngồi chờ các đòn phép mới lạ khác.
Yêu nhau tam tứ ( 3,4 ) núi cũng trèoTrai gái khi đã yêu nhau thì khó khăn tới đâu cũng sẵn sàng vượt qua.
Thất bát ( 7,8 ) sông cũng lội, tam thập lục ( 36 ) đèo cũng qua.Dân ca quan họ Bắc Ninh có bài " Ba mươi sáu thứ chim ":
Trên rừng ba mươi sáu thứ chimThoạt nghe hát chúng ta sốt ruột chờ đợi nhiều giống chim quý trên rừng. Nhưng bài ca chỉ đưa ra hai thứ chim quen thuộc của đồng quê, rồi nói qua chuyện khác. Chúng ta tò mò, sốt ruột vì con số 36.
Thứ chim chèo bẻo, thứ chim chích chòe
Người trồng tre cho tôi biết thứ tre
...Làng Đồng Kỵ, tỉnh Hà Bắc, hàng năm mở hội từ mùng 4 tới mùng 6 tháng giêng. Ngoài những trò chơi, thi đốt pháo, hội làng còn có rước hình sinh thực khí từ đền về đình. Hai lễ vật tượng hình sinh thực khí của đàn ông và đàn bà được làm bằng gỗ ( gọi là nõn ) và mo cau ( gọi là nường ). Đám rước tới trước sân đình thì cử hành "vũ điệu âm dương", lồng hai vật vào nhau ba lần. Lễ xong thì tung hai sinh thực khí lên trời cho dân làng tranh nhau chụp bắt.
Tục lệ này đã gợi ý cho câu ca dao rất trần tục:
Ba mươi sáu cái nõn nườngCon số 36 thật là mờ mờ ảo ảo.
Cái gối đầu giường là ba mươi bảyMột vài trích dẫn kể trên cho thấy rằng trong văn học, ngôn ngữ dân gian Việt Nam, " trăm " và " ba mươi sáu " thường được dùng để chỉ số nhiều một cách khái quát, không chính xác. Chúng không phải là những số đếm của toán, của thống kê ...* Chùa Trăm Gian không chắc có tới 100 gian và Hà Nội ngày xưa có nhiều hơn " băm sáu phố phường ".
(1) Võ Văn Tường, Việt Nam danh lam cổ tự, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1993, trang 90 và 396 .Nguyễn Dư
(2) Nguyễn Bá Lăng: Chùa xưa tích cuõ, NXB Lá Bối, San Jose ( Hoa Kỳ), 1988, trang 147-173.
(3) Vũ Ngọc Phan: Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1978, trang 186.
(4) Hoàng Đạo Thúy: Thăng Long, Đông đô, Hà Nội, NXB Hội Văn Nghệ Hà Nội, 1971, trang 56.
(5) Đào Duy Anh: Từ điển truyện Kiều, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1989.
(6) Hoàng Xuân Hãn: Bích Câu kì ngộ, NXB Đại Học, Huế, 1964.
Trở lại vấn đề Hà Nội băm sáu phố phường -
Tam thập lục kế
Nguyên Lạc
Đọc bài của Nguyễn Dư
"Trăm = 100 ? Ba mươi sáu = 36?" , tôi xin góp vài ý kiến.
Phố phường Hà Nội đã thay tên đổi dạng sau hàng bốn ngàn năm lịch sử.
Hà Nội băm sáu phố phường Dựa theo sách "Đường phố Hà Nội" của Nguyễn Vinh Phúc và Trần Huy Bá (Nhà Xuất Bản Hà Nội, 1979) thì cái tên "Hà Nội" mãi đến năm 1831 mới xuất hiện. Từ tên xa xưa La Thành (Thế kỷ thứ 8) đến tên Thăng Long (năm Lý Thái Tổ dời đô, 1010) là một chặng đường dài - với nhiều thay đổi trong kiến thiết cơ sở của thành phố.
Thời Lý Thái Tổ, tên Thăng Long chỉ hai khu vực:
- Khu vực vua và triều đình ở, nằm trong "Thăng Long Thành"
- Khu vực dân cư làm ăn sinh sống chung quanh thành gọi là "Thăng Long Ngoại Thành".Hai khu vực đó làm thành đơn vị hành chính Ứng Thiên. Tên đơn vị này đã thay đổi theo thời gian:
- Năm 1014, đổi gọi là Nam Kinh
- Sang đời Trần, đổi gọi là Trung Kinh
- Sang đời Hồ, đổi gọi là Đông Đô
- Thời Minh thuộc, gọi là Đông Quan
- Lê Thái Tổ đổi ra là Đông Kinh
- Năm 1466, Lê Thánh Tông đổi là Trung Đô
Năm 1469, Lê Thánh Tông lại đổi là Phủ Phụng Thiên.
Phủ này gồm có hai huyện, Vĩnh Xương và Quảng Đức - mỗi huyện chia ra làm 18 phường.Đây là sự kiện đầu tiên cho ta thấy kinh đô của thời vua Lê Thánh Tông có 36 phường.
36 phường trên tên là gì? có phải là 36 phố của Long Thành như bài ca dao đã nói không?
Tôi chắc là không, nhưng vì không đủ tài liệu để nói rõ là 36 phường đời Lê Thánh Tông tên là gì? (ông Sở Cuồng trong Nam Phong số 80 (1924) có nêu tên 34 trên 36 phường này, toàn là tên chữ Hán, lại không nói rõ dựa trên tài liệu nào.)Tình cờ về chơi Hà Nội, tôi mua một quyển sách tên là "Mưu lược người xưa" của hai tác giả Trung Hoa là Triệu Quốc Hoa - Lưu Quốc Kiến được dịch ra tiếng Việt (Nhà xuất bản Văn Hóa-Thông Tin, Hà Nội-1996). Đọc tới "Tam Thập Lục Kế", biết là sách đó được soạn khoảng thời Minh, không biết ai là tác giả.
Tam Thập Lục Kế Sách này nói về Quyền Mưu - chia làm 6 phần - mỗi phần lại chia ra làm sáu loại quyền mưu (kế).
Thắng chiến kế gồm có:
1-Man thiên quá hải (dối trời qua biển)
2-Vi Ngụy cứu Triệu (vây Ngụy cứu Triệu)
3-Tá đao sát nhân (mượn dao giết người)
4-Dĩ dật đãi lao (lấy nhàn đãi mệt)
5-Tấn hỏa đả cướp (nhân cháy nhà đánh cướp)
6-Thanh ngôn kích tây (nói thẳng là đánh phía tây)Địch chiến kế gồm có:
1-Vô trung sinh hữu (trong không sinh có)
2-Ám độ Trần Thương (lén đi qua Trần Thương - ghi chú người đọc: nay ở tỉnh Thiểm Tây)
3-Cách ngạn quan hỏa (cách bờ xem lửa)
4- Lý đại đào cương (mận chết thay đào)
5-Thuận thủ khiên dương (thuận tay bắt dê)
6-... đây thiếu một kếCông chiến kế gồm có:
1-Đả thảo kinh xà (đánh cỏ động rắn)
2-Tả thi hoàn hồn (mượn xác trả hồn)
3-Điệu hổ ly sơn (bắt hổ lìa núi)
4-Dục cầm cố túng (muốn bắt thì thả)
5-Phao chuyên dẫn ngọc (ném gạch đưa ngọc đến)
6-Cầm tặc cầm vương (bắt giặc bắt vua)Hỗn chiến kế gồm có:
1-Phú để trừu tân (rủi củi dưới đáy nồi)
2-Hỗn thủy mô ngư (đục nước mò cá)
3-Kim thiền thoát xác (ve vàng lột xác)
4-Quan môn trúc tặc (đóng cửa bắt giặc)
5-Viễn giao cận công (xa thì chơi, gần thì đánh)
6-Giả đạo phạt Quắc (mượn đường đánh Quắc)Tịnh chiến kế gồm có:
1-Du lương hoán trụ (trộm rường thay cột)
2-Chỉ tang mạ hoè (chỉ cây dâu mắng cây hoè)
3-Giả si bất điên (giả ngu không điên)
4-Thượng ốc trừu thê (lên nhà rút thang)
5-Thụ thượng khai hoa (trên cây hoa nở)
6-Phản khách vi chủ (đổi khách làm chủ)Bại chiến kế gồm có:
1-Mỹ nhân kế
2-Không thành kế
3-Phản gián kế
4-Khổ nhục kế
5-Liên hoàn kế
6-Tẩu vi thượng.Đó là 36 kế của người Trung Hoa.
* Ông Tổ Nguyễn Dư (Sức?) không những đố độc giả kể 36 chước là những chước gì lại còn đòi độc giả nói các chước đó hay ho như thế nào?
Tôi chỉ còn kế cuối cùng: Biết ít, đành nói ít thôi.Tạm biệt Nguyễn Dư và độc giả.
Nguyên Lạc
Hà Nội băm sáu phố phường
Nguyễn Dư trả lời
Nguyễn Dư trả lời: C ác nhà nghiên cứu lịch sử nước ta đưa ra nhiều kết luận khác nhau về phố phường của Hà Nội.
Hà Nội băm sáu phố phường
Tôi xin chép ra đây một vài tài liệu chính, liên quan đến phố phường Hà Nội.1- Sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi (Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976), viết về kinh đô như sau:
" (...) Từ Lý đến nay, cũng đóng đô ở đấy. Có 1 phủ lộ, 2 thuộc huyện, 36 phường.
Cẩn án: Phủ là Phụng Thiên, 2 huyện là Thọ Xương (xưa gọi là Vĩnh Xương) và Quảng Đức, mỗi huyện đều có 18 phường." (trang 217)Chúng ta biết rằng sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi (1380-1442) được Nguyễn Thiên Tích cẩn án năm 1435 và được khắc in năm 1438. Lê Thánh Tông đổi phủ Trung Đô ra phủ Phụng Thiên năm 1469. Như Vậy Nguyễn Thiên Tích không thể cẩn án về phủ Phụng Thiên được. Người đời sau đã sửa chữa, thêm vào sách của Nguyễn Trãi lời cẩn án này.
Thời Nguyễn Trãi, Đông Kinh có 1 phủ lộ, 2 thuộc huyện, 36 phường.
"Phủ Ứng Thiên (đời Lý là Nam Kinh) có 4 huyện, 245 xã (...)" (trang 222, phần cẩn án).2- Sách "Dư địa chí" của Phan huy Chú (lịch triều hiến chương loại chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960) cũng ghi phủ Ứng Thiên có 4 huyện như sách của Nguyễn Trãi.
3- Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968).
Kỷ nhà Trần: năm 1230, "Định các phường về hai bên tả hữu kinh thành, bắt chước đời trước chia làm 61 phường (...)" (tập 2, trang 10).
Năm Kỷ Sửu, Quang Thuận thứ 10 (1469), mùa hạ, tháng tư, Lê thánh Tông "định bản đồ các phủ châu huyện xã trong sách thuộc 12 thừa tuyên trong nước: Thanh Hóa 4 phủ (p) 16 huyện (h) 4 châu ờ; Nghệ An 9 p 27 h 2c (...); Ninh Sóc 1 p 7 h và phủ Phụng Thiên 2 h" (tập 3, trang 225).
Năm 1490, "Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 5, định lại bản đồ trong nước: 13 xứ thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. - Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Yên Bang, Tuyên Quang, Hưng Hóa đều đặt đô ty và thủ ngự." (tập 3, trang 306).Tóm lại, đời Trần (1230), xung quanh Trung Kinh có 61 phường. Đời Lê, năm 1469, phủ Phụng Thiên có 2 huyện, năm 1490, trong nước có 36 phường.
Nói rằng năm 1469, phủ Phụng Thiên "có hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện chia ra làm 18 phường" không biết có đúng không?
4- Sách "Làng xóm Việt Nam" của Toan Ánh (NXB Khai Trí, Saigon, 1963, Xuân Thu, Hoa Kỳ, in lại) cho biết:
"Ngày xưa, ở Hà Nội có rất nhiều phường, và mỗi phường ở một khu, sau biến thành phố, và những phố này thường chỉ gồm những người cùng làm một nghề hoặc cùng bán một loại hàng. Di tích này còn lưu lại tới ngày tiền hiệp định Genève, tuy trong phố cũng có một vài cửa hàng lạc nghệ xen vào.
Phố Hàng Đào gồm những cửa hàng tơ lụa, phố Hàng Giấy (...) (Trang 149).
"Hà Nội trước thời Pháp thuộc có 36 phố phường, với 36 nghề." (trang 150).5- Hoàng Đạo Thúy viết trong "Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội" (NXB Hội văn nghệ Hà Nội, 1971):
"Sử cũ chép: trong thành có 13 trại, ngoại thành có 61 phường". Thăng Long đời Lý đã có tới 61 phường.
Đến đời Nguyễn, trước thời Pháp thuộc, Hà Nội gần giống ngày nay:
"Tuy gọi là ba mươi sáu phố phường nhưng thật ra thì có nhiều hơn." (trang 56) (tác giả đưa ra một danh sách hơn 60 phố).
"Việc cai trị, có một phủ Hoài Đức, lỵ sở chỗ nhà thương Phủ Doãn ngày nay, gồm 2 huyện: nội thành có huyện Thọ Xương, lỵ sở ở Ngõ Huyện ngày nay, có khi lại ở Hàng Bột. Huyện gồm 8 tổng, 193 phường, thôn. Ngoại thành có huyện Vĩnh Thuận gồm 5 tổng, 54 phường, thôn, trại.
"Khu vực thành phố cũng như ngày nay, nhưng phía nam chỉ đến sau phố Tràng Tiền một ít, là hết.
Mỗi phố thường là một phường, nhưng cũng có những phố có nhiều phường. Ví dụ Hàng Đào là phường Đại Lợi, nhưng Hàng Gai, một đầu là phường Đông Hà, một đầu là phường Cổ Vũ." (Trang 57,58).Sách "Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội" có in kèm bản đồ Đông Kinh vẽ năm 1490 và Hà Nội vẽ năm 1831. Theo sách này thì Hà Nội trước thời Pháp thuộc đã có hơn "36 phố phường, với 36 nghề" rồi.
Trễ nhất là từ đầu thế kỷ 20, hai tiếng "phố phường" được hiểu, được dùng để chỉ phố xá (Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị). Cụm từ "Hà Nội băm sáu phố phường" được nhiều tác giả (điển hình là Thạch Lam) dùng để chỉ thành phố Hà Nội.
Câu nói "Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách" được sách "Điển cố văn học" (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977) giải nghĩa "Ba mươi sáu chước: Theo Nam Sử, Vương Kính Tắc có nói: Trong ba mươi sáu chước của Đàm Công, chạy là kế cao hơn cả."
Tam thập lục kế. Diên Hương (Thành ngữ, điển tích, NXB Phương Lai, Saigon, 1953) cũng giải nghĩa: "Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng sách: Ba mươi sáu chước, chước chạy là hơn. Lời của Đàm Công dạy Vương Kính Tắc, đời Nam Bắc triều, mắc nạn, còn có một chước trốn là hay hơn hết".
Đàm Công sống về thời Nam Bắc triều (khoảng 386-588). Trước Đàm Công khoảng một nghìn năm, thời Xuân Thu (722-480 trước TL), Tôn Tử đã soạn ra bộ Binh Pháp gồm 13 thiên: Thủy kế, tác chiến, mưu công, quân hình, binh thế, hư thiệt, quân tranh, cửu biến, hành quân, địa hình, tựu địa, hỏa công, dụng gián (Diên Hương, trang 406).
Hơn một trăm năm sau Tôn Tử, vào thời Chiến Quốc (khoảng 479-221 trước TL), Tôn Tẫn cũng có chép một bộ Binh Thư do Quỷ Cốc truyền dạy. Tư Mã Thiên (Sử Ký, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1988) có nói đến sách "Tư Mã binh pháp" của Nhương Thư, người nước Tề.
Đến đời Minh (1368-1648), sau Đàm Công khoảng một nghìn năm, có người soạn sách "Mưu lược người xưa", ghi lại 36 kế, đặt tên rõ ràng.
Tôi tra tìm trong sách của Tư Mã Thiên, Diên Hương và Nguyễn Tử Quang (Điển hay tích lạ, NXB Khai Trí, Saigon, 1974), tìm ra được vài kế của sách "Mưu lược người xưa", xin ghi tóm tắt ra đây:
1- Vi Ngụy cứu Triệu : Kế của Tôn Tẫn bày cho Điền Kỵ. Nhờ kế này nước Tề đánh thắng nước Ngụy, giải vây cho nước Triệu.
2- Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương : Hàn Tín sai người sửa sạn đạo để ai nấy đều thấy, đều nghĩ rằng công việc sửa đường còn kéo dài, nên không để ý đến nữa. Trong khi đó Hàn Tín ngầm cất quân bất ngờ đánh ải Trần Thương.
3- Giả đạo phạt Quắc : Tấn Hán Công muốn đánh Quách (Quắc?) nhưng còn sợ Ngu đem binh cứu Quách, Hiến Công sai người đem ngọc bích và ngựa hối lộ với Ngu, xin Ngu cho mượn đường đi đánh Quách. Tấn đánh lấy nước Quách, trở lại đánh nước Ngu, lấy lại ngọc và ngựa.
4- Mỹ nhân kế : Đại phu Văn Chủng hiến cho Việt Vương Câu Tiễn 7 kế (trong đó có mỹ nhân kế) để phá Ngô. Câu Tiễn sai Phạm Lãi đưa Tây Thi và Trịnh Đán dâng cho vua Ngô Phù Sai. Vua Ngô mê Tây Thi, dần dần bỏ bê việc nước. Nước Ngô suy yếu, bị nước Việt đánh chiếm.
5- Phản gián kế : Hạng Võ và Phạm Tăng vây thành Huỳnh Dương của nhà Hán. Trần Bình hiến kế ly gián làm cho Hạng Võ nghi ngờ Phạm Tăng. Phạm Tăng tức giận bỏ đi.
6- Khổ nhục kế : Huỳnh Cái, thời Tam Quốc, tình nguyện để cho Châu Du hành hạ, rồi vờ bỏ trốn về hàng Tào Tháo. Được Tào Tháo tin dùng, Huỳnh Cái là nội ứng giúp Châu Du đánh trận Xích Bích, đốt binh Tào Tháo.
7- Liên hoàn kế : Điêu Thuyền đời Hán dùng sắc đờp mê hoặc bố con Đổng Trác, Lã Bố. Nàng giả vờ yêu cả hai người khiến cha con thù ghét nhau. Lã Bố giết Đổng Trác. Ít lâu sau Tào Tháo giết Lã Bố ở Hạ Bì.
8- Tẩu vi thượng? Tại sao không gọi là "tẩu vi thượng kế"?
Trong câu nói "tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách", hoặc "tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng sách", tôi hiểu là chữ thượng đi với chữ sách. "Thượng sách" là mưu kế hay, ngược với "hạ sách" là mưu kế dở. Nếu đúng như vậy thì "tẩu vi thượng" hoặc "đào vi thượng" không phải là tên một kế, mà chính là một phần của một lời đánh giá. Trong hoàn cảnh của Vương Kính Tắc thì "tẩu" hoặc "đào" là hay nhất, là "vi thượng sách".
Tôi nghĩ rằng tác giả sách "Mưu lược người xưa" muốn chứng minh câu "tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách" bằng cách tuyển chọn 35 kế (hoặc 34?) của thời Xuân Thu, Chiến Quốc, Tam Quốc ( và có thể của cả các sách Binh Thư của Tôn Tử, Tôn Tẫn, Nhương Thư?), và gán cho một phần câu nói của Đàm Công là "diệu kế" thứ 36.
- nước ta cũng có người tuyển chọn 36 phố của Hà Nội làm thành bài ca dao "Hà Nội băm sáu phố phường".
Tôi e rằng người ta đã uốn nắn sự thật cho giống một lời nói, thay vì bác bỏ một lời nói vu vơ, có khi sai sự thật.* Lúc viết bài "Trăm=100? Ba mươi sáu=36?" tôi đã dại dột "múa rìu qua mắt ... Nguyên Lạc". Bị phang một gậy, choáng váng... "thấy 36 cây đèn cầy" (en voir trente-six chandelles, Larousse). Mắc mớ gì mà người Pháp cũng kéo con số 36 vào ngôn ngữ của mình?Xin cám ơn lời chỉ giáo của Nguyên Lạc và xin khất bạn một tuần trà đạo.
Nguyễn Dư
[ Trở Về ]