Chim Việt Cành Nam          [   Trở Về   ]         [ Trang chủ ]

Rằm tháng Giêng

GS Hoàng Như Mai

Nhân dân ta có câu : "Đi lễ quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng", vì ngày rằm tháng Giêng, người ta đi lễ chùa rất đông vui. Theo tục lệ, Tết là mở đầu cho một năm mới, rất quan trọng đối với cả một năm; ngày Tết người ta cầu chúc cho nhau những điều tốt lành với niềm tin là sẽ đạt được những điều ấy. Ngày mồng một tháng Giêng mọi người ở nhà lễ gia tiên, ăn Tết, kiêng không xuất hành. Cho nên, đến ngày rằm người ta đi chùa, lễ Phật, cầu mong Phật phù hộ độ trì để quanh năm bình yên; và cũng tin rằng những lời thành tâm ấy được chứng giám.

Nhà thô Hồ Dzếnh có sáng tác một bài thơ như sau :

       Rằm Tháng Giêng

Ngày xưa, còn nhỏ, ngày xưa,
Tôi đeo khánh bạc lên chùa dâng nhang.
Lòng vui quần áo xênh xang,
Tay cầm hương nến, đỉnh vàng mới mua.
Chị tôi vào lễ trong chùa,
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên :
"Lòng thành lễ vật đầu tiên,
Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng"
Chị tôi phụng phịu má hồng,
Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi.
Tam quan ngoài mái chị ngồi.
Chị nghe đoán thẻ chị cười luôn luôn :
"Quẻ thần thách mách mà khôn,
Số nàng chồng đắt mà con cũng nhiều".
Chị tôi nay đã xế chiều,
Chắc còn nhớ mãi những điều chị mơ.
Hằng năm tôi đi lễ chùa,
Chuông vàng, khánh bạc ngày xưa vẫn còn.
Chỉ hơi thấy vắng trong hồn,
Ít nhiều hương phấn khi còn ngây thơ.
Chân đi đếm tiếng chuông chùa,
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về.

Tác giả Hồ Dzếnh là một nhà thơ, nhà văn có tên tuổi. Bài thơ Rằm tháng Giêng chứa đựng một tình cảm trong sáng nhẹ nhàng. Đây là một trong những sáng tác của Hồ Dzếnh được nhiều độc giả thưởng thức và thuộc từ hơn nửa thế kỷ qua.

Giá trị đặc sắc của bài thơ là ở những điểm sau :

1. Bài thơ thể hiện các tục lệ "ăn Tết" nhiều ý nghĩa và đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt Nam ta. Đó là một thuần phong mĩ tục. Trong bài thơ này, qua một sự việc giản dị, có tính chất rất phổ thông là việc cô thiếu nữ đi lễ chùa ngày rằm tháng Giêng, tác giả giới thiệu đặc trưng của văn hóa truyền thống và tâm lí con người Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam ưa cuộc sống hiền lương, hướng thiện; họ biết dung hợp với thiên nhiên chung quanh; họ tin cậy ở đức hóa sinh của Trời Đất; họ nuôi trong tâm trí những niềm hy vọng lạc quan và họ theo đuổi những nguyện vọng hợp lí. Câu chuyện dẫn ra trong bài thơ, giống như một bức tranh dân gian đơn sơ, giản dị. Nó nói lên đầy đủ cái tính cách Việt Nam : mùa đông đi qua, mùa xuân vừa tới. Thiên nhiên và con người bước sang một chu kỳ mới, cô thiếu nữ thấy nảy nở trong lòng niềm vui hồn nhiên trong sáng, niềm tin vào tương lai. Cô cùng em nhỏ đi lễ chùa, thành kính cám ơn Trời Phật và cầu nguyện Trời Phật phù hộ độ trì cho cô. Bức chân dung "thiếu nữ ngày xuân đi lễ chùa" ấy đẹp một vẻ đẹp mộc mạc, thanh tú biết chừng nào! Cuộc sống tưởng chừng như đơn sơ, tẻ nhạt ấy thật ra rất thanh khiết và thuần nhã, như hoa sen mọc trong đầm mà toả hương thơm mát lòng người.

2. Đạo Phật từ lâu đã hiện hữu trong xã hội Việt Nam, hòa quyện vào tâm hồn Việt Nam thành một tố chất tự nhiên của cuộc sống. Có lẽ cô thiếu nữ không suy nghĩ toan tính sâu sắc gì nhiều, đứa em nhỏ lại càng không. Ngày xuân, hòa nhịp với cuộc sinh thành vô tận của vũ trụ và nhân sinh, hai chị em khấp khởi niềm vui trong lòng và hớn hở đi lễ chùa cầu Phật.

Ngôi chùa, biểu hiện của đạo Phật, trong ý thức của hai chị em là một nơi đông đúc, vui vẻ, thú vị. Đó chính là hình ảnh của đạo Phật trong dân gian Việt Nam. Đạo Phật không phải là những giáo điều khô khan xa vời, đạo Phật không phải là sự tu hành khắc khổ, công thức, giả tạo; đạo Phật là gần gũi, là thân mật, là ân cần, là bao dung "Khấn sao được vậy như lòng thế gian".

Cái quan niệm dân gian hóa - nếu có thể nói thế được - không sơ lược hóa, không thực dụng hóa đạo Phật mà chỉ tăng tính phổ cập, tăng sức sống cho đạo Phật, như truyện Nam Hải Quan Thế Âm đã nói :
 

Có thân ngồi núi Phật Đà,
Thân lên trên Phật, thân qua dưới đời.
Thần thông nghìn mắt, nghìn tay,
Phổ môn hiện để độ loài ngu mông.


Đứa trẻ nhỏ "Đeo khánh bạc lên chùa dâng nhang - Lòng vui quần áo xênh xang - Tay cầm hương nến, đỉnh vàng mới mua", cô thiếu nữ "Tam quan ngoài mái chị ngồi - Chị nghe đoán thẻ chị cười luôn luôn" biểu thị sự thuần phác, nhân hậu, lòng mộ đạo hồn nhiên ấy.

3. Đáng chú ý nhất là đoạn kết của bài thơ. Nhà thơ nhớ và kể lại một hồi ức của tuổi thơ. Các hồi ức về quá khứ thường là nhuốm màu u hoài. Nỗi u hoài ở đây là một nỗi buồn man mác. Cô chị thì :

Chị tôi nay đã xế chiều,
Chắc còn nhớ mãi những điều chị mơ.
Còn đứa em - nay là nhà thơ, thì :
Chỉ hơi thấy vắng trong hồn,
Ít nhiều hương phấn khi còn ngây thơ.
Tại sao có nỗi buồn ? Ấy là vì nhớ, tiếc quá khứ.
Cô thiếu nữ đã mơ những điều gì ? Những điều mơ ấy đủ đạt được, đạt nhiều hoặc ít, thì nay cũng qua cả rồi. Chị tôi nay "đã xế chiều" tức là già rồi, tuổi xuân qua rồi nên buồn bã nhớ tiếc.

Chính vấn đề là ở chỗ đó. Bởi vì cô thiếu nữ ngày trước ấy cho mơ là thật, nên cô tiếc. Nếu cô hiểu rằng :

Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không
                                        (Chinh phụ ngâm)
thì cô sẽ bình tĩnh hơn.

Đạo Phật cho rằng : cuộc đời là ảo mộng, mọi sự đều là giả. Cho nên những điều mơ của cô thiếu nữ chỉ là trong . Giả thiết có điều nào thực hiện được thì cũng là thực trong mà thôi.

Tôi còn nhớ một vị Hoà thượng đã nói :

"Từ con người cho đến sự vật chung quang mình đều theo dòng thời gian mà biến đổi Thân mình, và ngoại cảnh là không gian, ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai là thời gian, Tất cả là một dòng mộng có gì đâu thực là mình ?"

Nhưng hiểu như thế có khiến cho người đời hoài nghi bi quan, tiêu cực không ?

Vị Hòa thượng nói tiếp :

"Nhưng nhờ phúc duyên lành, chúng ta được Đức Phật chỉ cho trong cái mộng ấy có cái không phải là mộng. Mà cái đó là cái hiện giờ chúng ta đang trở về, đang theo dõi nó và tìm thấy nó để sống với nó"

".. Nếu chúng ta sống với tâm niệm thiền thì mới thấy rằng trong cái sinh, diệt ảo mộng còn có cái không sinh diệt lẫn trong ấy. Thế nên lòng mình được an ổn, tự tại và vui vẻ. Chỉ thấy được một tí, một khía cạnh nhỏ xiú nào của cái đó, chúng ta cũng cảm thấy hứng khởi, một niềm vui vẻ để xoá được nỗi đau buồn"

Giá trị tích cực, giá trị nhân văn của đạo Phật là như thế. Điều mà hoà thượng nói trên, chúng ta đã thấy được trong bài thơ Rằm Tháng Giêng.

Nhà thơ Hồ Dzếnh, hoài niệm quá khứ, có vương vấn, có bâng khuâng, có nhớ tiếc :

Hàng năm tôi đi lễ chùa,
Chuông vàng, khánh bạc ngày xưa vẫn còn.
Chỉ hơi thấy vắng trong hồn.
Ít nhiều hương phấn khi còn ngây thơ.
Ấy cũng là vì ngộ nhận cái giảthực. Nhưng, có sự xuất hiện của tiếng chuông chùa :
Chân đi đếm tiếng chuông chùa,
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về.
Câu thơ cho thấy sự thư thái, trấn tĩnh trở lại trong tâm hồn nhà thơ. Phải chăng "năm tháng ngày xưa trở về" với nhà thơ ? Làm sao như thế được ! Năm tháng ngày xưa đã đi qua, đã mất, trở về sao được ! Ấy là vì nhà thơ lắng nghe từng tiếng chuông chùa, tiếng chuông đã gợi lại cái Phật tính vốn có trong nhà thơ và cái tâm của nhà thơ trở nên thanh thản, vô tư, hồn nhiên như cái tâm của trẻ thơ đấy thôi.
 
GS Hoàng Như Mai


 [  Trở Về  ]