thấy mình. . . như sương
Phụ bản
Từ Bi: một đức hạnh để sống thân thiện với môi trường
Ô nhiễm môi trường không phải một vấn đề mới. Từ Bi là một hạnh cần được thường xuyên suy niệm và tu tập cũng không xa lạ gì đối với Phật tử. Vì vậy, chúng tôi khẳng định rằng đề tài "Từ bi: một đức hạnh để sống thân thiện với môi trường" sẽ không mang đến cho quý vị một ý tưởng đặc biệt nào ngoài ước mong được sự góp ý của quý vị nhằm soi sáng nội dung sắp được trình bày.
Sự ô nhiễm và hủy hoại của môi trường ngày càng được quan tâm vì mức độ nguy hại của chúng đã bao trùm khắp địa cầu. Nó đã trở thành một thách thức lớn của nhân loại và khiến cho bao nhiêu bậc trí gỉa không ngừng truy tầm những giải pháp và một khung hành động chung cho mọi người trên thế giới để bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Chúng tôi nghĩ rằng Phật giáo, nói chung, và Phật tử, nói riêng, cũng đã và đang đóng góp cho những việc tương tự. Hôm nay chúng tôi xin một mặt giới thiệu lại những kỳ vọng lớn của cộng đồng các quốc gia trên thế giới trong sự nghiệp bảo vệ môi trường và mặt khác nhắc lại những lời khuyên dạy của Đức Phật trong kinh Từ Bi như hành trang quí báu để sống thân thiện với môi trường, với thế giới đồng hiện hữu.
2. Từ Hội nghị Thượng đỉnh Stockholm đến Hội nghị Thượng đỉnh Johannesburg
UNESCO, một trong những tổ chức quốc tế đầu tiên đã triệu tập tại Paris/ Pháp vào năm 1968 một Hội nghị về môi trường nhằm tìm kiếm phương cách sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của sinh quyển (1).
Bốn năm sau, năm 1972, "Hội nghị Liên hợp Quốc về Môi trường con người" được tổ chức tại Stockholm/ Thụy Điển, với sự tham gia của 113 quốc gia, đã thừa nhận sự xuống cấp của môi trường toàn cầu và xem đó là "một vấn đề lớn có ảnh hưởng tới phúc lợi của mọi dân tộc và phát triển kinh tế toàn thế giới..." nên cần phải có ngay biện pháp pháp bảo vệ và cải thiện.
Hội nghị đã đề ra 26 nguyên tắc định hướng cho hành động với mục tiêu bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, cải thiện năng lực của trái đất và ngăn ngừa các chất ô nhiễm độc hại (2) .
Sau 20 năm thực hiện, kết quả đạt được thật là ít ỏi, bởi vì các chính phủ trên thế giới vẫn luôn luôn xem việc tăng trưởng kinh tế là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong việc xây dựng đất nước. Vì vậy một đồng bạc được đưa vào việc bảo vệ môi trường thường được xem như là một đồng bạc bị đánh mất trong việc đầu tư kinh tế.
Rút kinh nghiệm đã qua, người ta nhận thấy rằng các mục tiêu môi trường chỉ có thể đạt được khi nó được gắn liền với những mục tiêu kinh tế và xã hội trong một chính sách phát triển toàn diện. Một khái niệm mới, khái niệm "phát triển bền vững", dần dần được hình thành.
Năm 1992, tại "Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển" 178 quốc gia đã công nhận "Phát triển Bền vững" là một "Chiến lược của thiên niên kỷ", trong đó sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi truờng được trở thành 3 trụ cột gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau và củng cố, hài hòa lẫn nhau. Mục tiêu của chiến lược là xây dựng một nền văn minh bền vững trên Trái Đất bằng cách xoá nghèo khổ, cải thiện đời sống, tạo sự phồn vinh và hoà bình cho nhân loại.
Hội nghị Rio đã tuyên bố 27 nguyên tắc cơ bản định hướng cho hành động của các chính phủ. Kèm theo đó là Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21) bao gồm 40 chương ghi rõ chi tiết những hành động quyết định cho tương lai trái đất (3).
Sau Hội nghị Rio, Chiến lược "phát triển bền vững" đã trở thành quốc sách của tuyệt đại đa số quốc gia trên thế giới. Đây cũng là hệ quả tất yếu khi mà Hội nghị đã công nhận Trái Đất là ngôi nhà chung của nhân loại.
Bên cạnh những chương trình hành động của các chính phủ, nhiều tổ chức phi chính phủ, có cả tôn giáo, đã tiếp tay với nhà nước trong việc xóa nghèo khổ, thay đổi thói quen tiêu dùng, kế hoạch dân số, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ khí quyển, bảo vệ nguồn nước ngọt, xử lý rác, tăng cường vai trò nữ giới, quan tâm đến trẻ em và thiếu niên, phát triển giáo dục... Họ đã xây dựng các chương trình hành động cụ thể đến tận cấp địa phương.
Từ năm 1992 đến nay, Chính sách phát triển bền vững đã được quảng bá đến công dân mọi quốc gia. Nhưng trên bình diện thực hành, các chính phủ đã thu gặt được gì không sau 10 năm thực hiện?
Năm 2002, Phó Tổng Thư ký Liên Hợp quốc Nitin Desai đã đúc kết như sau:
... "Thành quả ghi nhận được còn nghèo nàn. Nghèo khó và các bệnh tật có khả năng tránh được vẫn còn tồn tại. Môi trường đất, nước, đại dương, rừng vẫn tiếp tục suy thoái. Các rủi ro từ sự biến đổi khí hậu cũng như các lĩnh vực khác tiếp tục tăng lên". (4)
Câu trả lời này cho thấy rõ rằng các mục tiêu chính mà Hội nghi Rio quyết tâm hướng tới đã không đạt được. Trong lãnh vực môi trường, sự suy thoái không chỉ tồn tại như cũ mà còn trở nên trầm trọng hơn nữa!
Một Hội nghị toàn cầu nối tiếp mang tên là "Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững" được tổ chức tại Johannesburg, Nam Phi vào năm 2002. 196 quốc gia tham dự lại cố gắng tiếp tục công việc tìm các giải pháp cho những vấn đề cản trở tiến trình phát triển bền vững. Hội nghị rất lo lắng về sự "phát triển kinh tế theo hướng thương mại và tự do hóa tài chánh" hiện nay và xem đó là một vấn đề lớn "đã gây nhiều khó khăn cho việc theo đuổi các mục tiêu môi trường và xã hội..." (4).
Hội nghị Johannesburg đã mang lại nhiều đổi thay.
Thứ nhất, nội dung của khái niệm "Phát triển bền vững" được mở rộng bằng 3 mục tiêu bao gồm: chống nghèo khổ, thay đổi thói quen tiêu dùng và thay đổi hình thức sản xuất và quản lý tài nguyên thiên nhiên để phục vụ kinh tế, xã hội.
Thứ hai, Hội nghị đã mở cửa cho những đối tác ngoài chính phủ được đóng góp phần của họ vào sự nghiệp phát triển bền vững. Sự mở cửa này cũng có thể xem như một sự công nhận rằng các tổ chức phi chính phủ, của các hiệp hội dân sự v..v.. đã hành động rất hiệu quả.
Thứ ba, Hội nghị Johannesburg đã nhất trí thông qua "Chương trình để thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của năm 1992" và cam kết tiếp tục hành động vì sự phát triển bền vững.
Trong phát biểu bế mạc Hội nghị Johannesburg, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan đã kết thúc bài diễn văn bằng câu nói như sau: "Đã đến lúc chúng ta cần thực sự vào cuộc và hành động. Thời điểm kết thúc hội nghị hôm nay (tứ là ngày 04/09/2002) chính là thời điểm khởi đầu công việc của chúng ta". (5)
3. Một số nguyên nhân khiến chiến lược "Phát triển bền vững" chưa ngăn chận được sự suy thoái của môi trường
Trên thực tế, thời điểm này đích thực là điểm khởi đầu của các hoạt động phân tích, đánh giá và phê phán về Hội nghị. Rất nhiều người tỏ sự ngờ vực về tương lai của loài người và Quả Đất được Hội nghị tô hồng.
Nhiều câu hỏi được đặt ra. Ví dụ như:
Liệu những quốc gia trên thế giới có thể sớm thực hiện thành công việc "xây dựng trên quy mô toàn cầu một xã hội nhân bản, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và thấu hiểu về nhu cầu phẩm giá cần cho tất cả mọi người" không? (6).
Liệu trẻ em sẽ "được thừa hưởng một thế giới không có sự phỉ báng và khiếm nhã do nghèo khó, suy thoái môi trường và các mẫu hình phát triển không bền vững gây ra" chăng? (6)
Liệu sự suy thoái môi trường có thể sớm được ngăn chặn không?
Chúng ta có thể hiểu được tâm trạng ngờ vực tàng ẩn trong những câu hỏi trên bởi vì bao nhiêu cam kết, hứa hẹn và nỗ lực từ Hội nghị Paris năm 1968 cho đến Hội nghị Johannesburg năm 2002 đã đưa lại một số kết quả vô cùng khiêm tốn.
Lời tự phê như lời tự phê của Tổng Thống nước Cộng hòa Nam Phi Thabo Mbeki trong bài Phát biểu chào mừng của ông tại Hội nghị Johannesburg năm 2002 đáng để chúng ta suy ngẫm: "Thật đáng buồn, chúng ta vẫn chưa đạt được một bước tiến nào đáng kể trong việc thực hiện hóa những điều khoản của Chương trình Nghị sự 21 và những thỏa thuận quốc tế khác. Rõ ràng là cộng đồng toàn cầu vẫn chưa tỏ rõ ý chí thực hiện những quyết định đã được chúng ta thông qua một cách dễ dàng. Hậu quả hiển nhiên của việc này là sự tăng lên những nỗi thống khổ của nhân loại, suy thoái về sinh thái, kể cả gia tăng ngăn cách Bắc Nam - mà tất cả những điều đó lẽ ra đã có thể phòng tránh được" (7) .
Thực ra sự thiếu ý chí chưa phải là nguyên nhân duy nhất. Còn nhiều nguyên nhân khác nữa.
Đó là sự trì trệ của các quốc gia, là các biện pháp đề ra không mang tính khả thi, là tư duy xây dựng Chiến lược Phát triển bền vững mang nặng tính cách lý thuyết, là Chương trình nghị sự quá lớn lao mà chính những người trong hội nghị cũng đã không thực sự hiểu thấu đáo những mối liên kết giữa các vấn đề (8). Rất nhiều người nghi ngờ lời kêu gọi của Hội nghị về sự tăng cường đối thoại và sự hợp tác giữa các nền văn minh và các tôn giáo (9), bởi vì vấn đề văn hóa, một động lực quan trọng của sự phát triển, không được đề cập đến trong Hội nghị, nhưng bóng dáng của nền văn hóa Tây Phương lại ẩn hiện đó đây trong Chiến lược phát triển bền vững. Nền văn hóa ấy lấy con người làm bản vị và đã hợp pháp hóa vai trò thống trị của con người lên thiên nhiên.
4. Khủng hoảng sinh thái là khủng hoảng tâm thức của con người
Chúng tôi xin không đi sâu vào các nguyên nhân cản trở việc bảo vệ môi trường để trình bày vài ý tưởng được khởi lên từ một số vấn đề của các Hội nghị Thượng đỉnh và sau đó xin gợi ý về một giải pháp cốt lõi rút ra từ Kinh Từ Bi.
Theo quan điểm chúng tôi, các Hội nghị quốc tế về môi trường và phát triển bền vững, thật đáng được ca ngợi.
Thứ nhất, các Hội nghị này, qua tư duy nối mạng, đã cơ bản gộp chung lại những lãnh vực kinh tế, xã hội và môi trường mà trước kia chúng đứng tách biệt nhau và chỉ rõ rằng việc bảo vệ môi trường không thể đứng độc lập được. Hội nghị đã đưa ra một nội dung lý tưởng cho những mục tiêu cụ thể vì nhân loại.
Thứ hai các Hội nghị đã công nhận Trái Đất là "Ngôi Nhà Chung" của nhân loại và tính toàn bộ của hệ sinh thái Trái Đất, soi sáng mối quan hệ hỗ tương giữa nhân loại với thiên nhiên, giữa các hệ sinh thái nhân tạo với các hệ sinh thái thiên nhiên trong một mạng lưới rộng lớn của hệ sinh thái Trái Đất.
Hai điều trên đây đã giúp con người ý thức rõ tác động đúng-sai, tốt-xấu, riêng-chung đều mang tính liên đới dây chuyền dài hạn.
Đối với hàng Phật tử, cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Phật đã giảng dạy phương pháp tư duy nối mạng qua nguyên lý Duyên Khởi:
"Cái
này hiện hữu thì cái kia hiện hữu. Cái này không thì cái
kia không;
Cái
này sinh thì cái kia sinh. Cái này diệt thì cái kia diệt".
Nguyên lý này chỉ rõ rằng mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới và vũ trụ đều làm điều kiện (duyên) cho nhau. Những điều này vừa là nhân và cũng vừa là quả vận hành và chuyển biến không ngừng nghỉ trong quá trình "sinh thành hoại diệt". Cũng có thể gọi đó là Nguyên lý nhân quả hỗ tương.
Ngài Tịch Thiên đã nhắc lại trong tập Luận "Nhập Bồ Tát Hạnh": "Tất cả các pháp đều do các duyên khác sinh ra. Không pháp nào tự có". Điều này xác nhận rằng không có một thực thể độc lập. Mọi sự vật và hiện tượng đề bị chi phối bởi Nguyên lý nhân quả hỗ tương. (10)
Xin mạn phép nêu ra đây một tiến trình giản lược để làm rõ nét các mối tương quan, tương duyên, tương sinh, tương tác của vấn đề ô nhiễm và suy thoái môi trường, trong đó các nhân tố vừa là nguyên nhân cũng vừa là kết quả tác động lẫn nhau trong một chuỗi dài theo dòng thời gian:
Để đến đích nhanh, xe cơ giới được chế tạo và được sử dụng. Khói bụi phun từ xe cơ giới, đánh độc con người. Những chất như CO (cacbon mônôxit, SO2 (synphua điôxit) NO 2 (Nitơ điôxit) và CO 2 (cacbon điôxit)], với nồng độ loãng, chỉ làm cho con người cay mắt, ngộp thở hoặc sặc sụa; với nồng độ đậm đặc hơn chúng gây bệnh đường phổi hoặc giết chết con người. Biến cố sương mù Luân Đôn năm 1952 đã cướp mất hơn 4 000 nhân mạng. Đó là những kết quả đồng thời trực tiếp cho con người. Khí CO 2 đã góp phần tạo ra hiệu ứng nhà kính hâm nóng Quả Đất, làm rối loạn khí quyển, nâng cao sức tàn phá của bão lụt, khiến con người khốn đốn hơn. Đây là kết quả đa dạng dị thời cho toàn bộ hệ sinh thái Quả Đất và sự an sinh của nhân loại.
Như vậy trong mạng lưới Duyên khởi mỗi một điều kiện mới thêm vào hay mất đi đều dẫn đến sự biến đổi tất yếu cho hoàn cảnh chung. Hữu thể cá biệt và hoàn cảnh chung của giây phút trước đã khác đi ngay trong giây phút sau. Như vậy, Nguyên lý Duyên khởi một mặt bao hàm cả luật Vô thường nói lên tính vận động và biến chuyển không ngừng của vạn hữu; mặt khác bao gồm cả luật Vô ngã khẳng định rằng không có sự vật nào có "cái Ta" như một thực thể bất biến, vĩnh hằng. Trong mạng lưới Duyên khởi, mọi sự sinh thành hoại diệt đều bình đẳng và không bị sự nhào nặn hay chi phối nào từ bàn tay của một hữu thể thần thánh đứng phía sau hoặc đứng bên trên. Mọi sự thưởng phạt đều là quả báo của biệt nghiệp hay cộng nghiệp, của tác động qua lại giữa các nhân tố trong mạng lưới Duyên khởi.
Có một điều quan trọng mà rất nhiều người chưa quan tâm đủ, đó là "sức quật ngược" của các tai họa và ô nhiễm môi trường. Con người càng gieo tai họa, ô nhiễm cho môi trường bao nhiêu thì cũng nhận lại bấy nhiêu tai họa và ô nhiễm ấy như ví dụ vừa minh họa. Môi trường hay Thiên nhiên luôn luôn im lặng. Những từ "lợi", "hại", "tốt", "xấu" v..v.. đều phát sinh từ tâm ý của con người. Chỉ có hành động do tâm ý điều khiển của con người mới đem lại kết quả tốt hay xấu.
Kinh Pháp cú 127 đã ghi:
Trong Quy hoạch cảnh quan, để tiện việc xác định mục tiêu và kế hoạch sử dụng môi trường sống một cách bền vững, các nhà khoa học đã dựa theo tỷ lệ giữa các nhân tố thiên nhiên và nhân tạo để phân cấp các hệ sinh thái theo các tiêu chuẩn tự nhiên, sát tự nhiên, gần tự nhiên, bán tự nhiên, gần nhân tạo và nhân tạo. Sự phân cấp các hệ sinh thái đã phản ánh rõ hệ quả của sự biến cải khuôn mặt Trái Đất của con người thông qua tư duy, hành động, kỹ năng và trình độ văn minh xuyên suốt qua dòng thời gian. Như vậy, sự khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng môi trường ngày hôm nay thực chất là sự khủng hoảng của tâm thức con người.
Đến nay, con người là nhân tố chủ động nhất, có quyền lực nhất, gieo ảnh hưởng lớn nhất và đem lại nhiều kết quả đổi thay sâu sắc nhất trong mạng lưới quan hệ qua lại giữa mọi sự vật. Trong những kết quả ấy, có hai kết quả đã đem lại cho nhân loại nỗi lo lắng vô cùng lớn lao: đó là sự "khủng hoảng môi trường" và "sự phân chia sâu sắc xã hội loài người giữa giàu và nghèo". Hội nghị Johannesburg đã xem chúng là hai nguyên nhân đe dọa sự tồn tại của Trái Đất và hòa bình của thế giới.
Đây là quả báo mà con người phải thọ lãnh từ nghiệp mình đã gieo.
Theo Nguyên lý Duyên khởi, chúng ta có thể khẳng định rằng các vấn đề nêu trên là những hệ quả tiêu cực vô cùng trầm trọng phát sinh từ nguyên nhân "sử dụng sai hiểu biết và sức mạnh" của con người (11). Song nguyên nhân cốt lõi đứng bên sau sự sử dụng sai ấy chính là tâm thức tạo nên một thế giới quan phủ nhận mối quan hệ bình đẳng giữa con người và thiên nhiên, giữa xã hội này với xã hội khác. Thế giới quan này đã khiến cho nhiều người muốn đứng tách biệt lên trên và muốn thống trị vạn vật, đã gán cho thiên nhiên một giá trị sinh lợi, một giá trị của hàng hóa và đã hợp pháp hóa vai trò thống trị của con người đối với thiên nhiên. Đây là nguyên nhân của sự bóc lột tài nguyên thiên nhiên không thương tiếc, của sự sử dụng con người như một loại tài nguyên -- chúng ta vẫn thường nghe thuật ngữ "tài nguyên con người", tài nguyên nhân lực"!.
Chúng tôi nhắc đến thế giới quan này vì nó cản trở tiến trình triển khai của "Chương trình nghị sự 21". Bởi vì "Tâm dẫn đầu các pháp" nên nó không thể nào bị xóa bỏ được bằng những biện pháp hành chánh, quản lý và đào tạo hoặc bằng những công cụ tài chánh và kỹ thuật mà các Hội nghị Thượng đỉnh đề ra.
Các Hội nghị chỉ nói nến cuộc khủng hoảng môi trường và hoàn toàn làm ngơ trước cuộc khủng hoảng tâm thức. Các Hội nghị không đưa ra một lời khuyên nào về cung cách hành động mang tính đạo đức. Do đó, lời khuyên "nên giảm dần và loại trừ những phương thức sản xuất và tiêu dùng không bền vững" (12) sẽ không được mấy ai tuân thủ nghiêm túc bởi vì lợi nhuận kinh tế vẫn luôn luôn được đánh giá là quan trọng nhất trên thế giới này.
Nhiều nước phương Tây đã nhận thức được vai trò then chốt của văn hoá trong phát triển và đã đưa văn hoá vào Chiến lược và quy hoạch Phát triển bền vững của họ như một trụ cột thứ tư, bên cạnh ba trụ cột: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
5. Từ Bi, một hạnh tu, một con đường đưa đến an lạc, hoà bình và thân thiện với môi trường
Trong những thập niên qua, thế giới quan phủ nhận sự bình đẳng giữa con người và thiên nhiên tuy rất phổ biến nhưng đã dần dần bị đông đảo các nhà đạo đức môi sinh, các triết gia, khoa học gia ... phê phán. Các cuộc bàn luận về "Chủ nghĩa vì con người", "Chủ nghĩa vì sinh thái", "Chủ nghĩa vì Công nghệ" (Technocentrism) trong mối quan hệ với Phát triển bền vững đang rất sôi động.
Dầu sự bàn thảo về đạo đức môi sinh còn tiếp tục kéo dài đến đâu chăng nữa, con người phải thấy rằng Quả Đất chẳng khác nào một "Con tàu Vũ trụ", một Con tàu không có bến. Cụm từ "Con tàu Vũ trụ" nói lên số phận hoàn toàn bị lệ thuộc của nhân loại vào Quả Đất. Con tàu này không thể tìm được một bến nào khác để tấp vào vứt bỏ không khí và nước uống ô nhiễm để rồi thay vào đó bằng không khí và nước uống trong sạch hoặc để lấy thêm lương thực dự trữ cho dân số tăng lên không ngừng. Như vậy, hủy diệt môi trường và hệ sinh thái Quả Đất cũng là hủy diệt loài người. Sống thân thiện với môi trường và Quả Đất cũng là sống thân thiện với loài nguời.
Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (IUCN), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế (WWF) đã nhận thức rõ điều này hơn ai hết và năm 1991 đã công bố một Chiến lược "Cứu lấy Quả Đất" (13).
Chiến lược đã nêu lên một loạt các yếu tố về đạo đức để xây dựng tư cách mới của con người "bởi vì đó là một chân lý". Đối với sự sống của các loài, Chiến lược đã xác nhận rằng: "Mỗi dạng sống đều phải được bảo đảm quyền tồn tại, bất kể nó có giá trị như thế nào đối với con người. Sự phát triển của loài người không được đe dọa đến tính toàn vẹn của thiên nhiên và sự sống còn của các loài khác. Con người phải đối xử tử tế với tất cả các sinh vật khác và bảo vệ chúng chống lại những hành vi hung bạo, những đau đớn có thể tránh được, cũng như sự giết chóc không cần thiết." (14). Để được vậy, con người"phải thay đổi thái độ và hành vi" của mình, "thay đổi kiểu sống", "thay đổi những quan niệm về giá trị mà họ quen hiểu xưa nay" (15).
Trước đó Albert Schweizer đã nói đủ những điều trên qua một công thức ngắn gọn: "Đạo đức là sự mở rộng trách nhiệm đến tận vô biên đối với tất cả những gì có sự sống" (16).
Về mặt tôn giáo, tình yêu thương rộng lớn như bác ái, từ bi được xem như nguyên tắc căn bản để cứu lấy Quả Đất. Trong xã hội Phương Tây, nhiều người đã sống với tình thương rộng lớn và đã nhắc đến lòng từ bi trong việc cứu lấy Quả Đất (17).
Điều này đã khiến chúng tôi tự thấy xấu hổ vì ý thức rất rõ rằng tâm mình chưa được thấm nhuần đức Từ Bi và ngay trong đời sống hàng ngày vẫn chưa thực hiện đúng đắn được một phần vô cùng bé nhỏ đức hạnh này. Nhưng là Phật tử không lẽ không góp ý gì về nội dung của Từ Bi trong tương quan với việc "Phát triển bền vững" và cứu lấy môi trường ?
Là Phật tử, ai cũng biết rằng thực hiện Từ Bi là thể hiện lòng thương yêu và lòng thương xót chúng sinh khổ ải để dốc chí đem lại cho chúng niềm an vui và sự cứu khổ. Đối với cuộc khủng hoảng môi trường Từ Bi trở thành nguyên tắc sống thân thiện, sống "vô hại" đối với muôn loài và đối với địa bàn sinh sống của chúng.
Từ Bi đi chung với Hỷ Xả (tứ Vô lượng tâm) là bốn hạnh tu hỗ trợ nhau để để diệt ác tâm và sống an lạc trong hiện tại. Xa hơn nữa, Từ Bi là một con đường sống cao đẹp đưa đến hạnh phúc và hòa bình, điều mà toàn thể nhân loại mơ ước. Từ Bi cũng là một bản đồ tu tập để Phật tử thoát khỏi vòng luân hồi, một mục đích mà tất cả Phật tử đều nhắm đến. Những điều này đã được đức Phật trình bày rất hệ thống trong Kinh Từ Bi.
Chúng tôi xin mạn phép trình bày lại nội dung của Kinh trong mối liên hệ với một số vấn đề của môi trường. Chúng tôi dựa vào bản Kinh Từ hay Kinh Từ Bi (Metta-Sutta) do cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu dịch ra Việt ngữ (18). Duy câu "Ưa thanh bần, dễ dàng chịu đựng" xin được đổi thành "Sống biết đủ, dễ dàng thỏa mãn", sát với bản dịch của Ngài Nyanaponika có chú giải (19) và cũng không lệch với câu dịch lấy từ Thư viện Hoa Sen: "Tri túc, dễ nuôi (sống giản dị, để cho người thiện tín dễ dàng hộ trì) ".
Nội dung của Kinh Từ Bi có thể tóm gọn rằng để đạt được hạnh phúc và thoát khỏi luân hồi Phật tử phải có đầy đủ Trí và Đức.
Thứ nhất, phải phát triển trí tuệ và nhận thức
Thứ hai, phải mở rộng từ tâm đến tất cả muôn loài
Thứ ba, phải mạnh dạn lãnh trách nhiệm và hành động vì lợi ích của chúng sinh và
Thứ tư, phải đạt được giới đức và trí tuệ cao rốt ráo cũng như dứt sạch tham dục.
Chúng
tôi xin đọc ba câu đầu của bản kinh:
Thâm nhập vào Tứ Diệu Đế cũng là thâm nhập vào Nguyên lý Duyên khởi, là thấy được mạng lưới tương quan, tương duyên, tương tác, tương sinh giữa các sự vật và hiện tượng. Nhờ vậy có thể ý thức rằng, một con người (hay một sự vật) đứng tại một điểm nào đó trong mạng lưới dày chằng chịt và vô thủy vô chung này, không thể được xem là một kẻ đứng giữa, đứng tại trung tâm của mọi sự vật chung quanh (như người ta vẫn thường nói: "môi trường chung quanh"). Con người chỉ có thể "đứng cùng", "đứng với", đứng một cách bình đẳng với muôn loài trong môi trường, trong toàn thể hệ sinh thái Địa Cầu.
Bản thân chúng tôi, chúng tôi thích thay khái niệm "môi trường" bằng khái niệm "thế giới đồng hiện hữu". Đây là một khái niệm lạ song thiết nghĩ nó hợp với Nguyên lý Duyên khởi, hợp với cái nhìn về tính toàn thể của hệ sinh thái Địa Cầu, hợp với nội dung mở rộng của sự bảo vệ môi trường và nhất là hợp với nội dung "Từ Bi" và tâm nguyện làm Phật tử của mình. Khái niệm này giúp chúng tôi thấy rõ hơn nghiệp báo đồng thời và dị thời, nhìn thấy môi trường "trả lui lại" lại cho con người tất cả những gì tốt hay xấu mà con người đem đến cho nó.
"Phải
có tài năng" là một đòi rất cao về mặt trí tuệ. Phải
có trí tuệ mới nhận thức được những mối quan hệ hỗ
tương trong cuộc sống để vững lòng và tinh tấn thực hiện
hạnh Bố thí :
Trong
câu "Phải tài năng ngay thẳng công minh" chúng ta thấy bên
cạnh "tài năng" còn có hai đức tính ngay thẳng và công minh
nhưng không phải chỉ bấy nhiêu thôi. Kinh Từ Bi còn liệt
kê một loạt đức tính thiện khác để làm trang bị cho kẻ
đi tìm hạnh phúc. Chúng là:
Những
đức tính thiện này giúp con người ứng xử tốt với người
và giữ được mình trong giới hạn không tự làm tổn hại
mình và gây tổn hại cho người.
Chúng tôi xin nói thêm về sự "sống biết đủ". Sống biết đủ là sống chừng mực, trung dung giữa những thiếu thốn, bần hàn và xa hoa, lãng phí. "Biết đủ" ngụ ý khuyên rằng nên giới hạn sự xa hoa, lãng phí.
Xin nêu một ví dụ nhỏ về một hộp kẹo xô-cô-la để minh họa sự lợi và hại về mặt kinh tế và môi trường: Mỗi viên kẹo xô-cô-la đều được bọc trong một lớp giấy màu, có trường hợp còn được bọc thêm bên ngoài một lớp giấy trong. Những viên kẹo được đem đi bao bì. Trước hết chúng được đặt vào một khuôn nhựa êm rồi được phủ lên trên bằng lớp giấy xốp. Sau đó, tất cả đều được để vào một hộp giấy với mẫu mã và màu sắc đẹp tươi. Hộp giấy lại được bao thêm bằng một lớp giấy kính. Khi hộp xô-cô-la được mang tặng, nó lại được bao thêm một lần nữa bằng giấy hoa sặc sỡ và được ràng xung quanh bằng giây kim tuyến có kèm theo một đóa hoa nhân tạo.
Đối tượng của sự sản xuất là kẹo xô-cô-la. Người tiêu thụ cuối cùng là kẻ ăn xô-cô-la. Sự bao bì không có chức năng nào khác hơn ngoài sự phục vụ cho nghi thức giao tiếp và thị hiếu thẩm mỹ. Giao tiếp càng lịch thiệp, càng kiểu cách, càng "cao cấp" như thế nào thì bao bì càng trang trọng, càng xa hoa lộng lẫy. Cái giá trị "giản dị" không có chỗ đứng trong xã hội xa hoa và lãng phí. Các công đoạn bao bì kiểu cách nói trên thực ra chỉ đem lợi cho các nhà sản xuất và cung cấp nguyên liệu. Họ đã nhờ các nhà tâm lý học và thiết kế mẫu mã tư vấn trong việc khai thác thị hiếu và nếp sống bề mặt của con người.
Bao bì, giấy gói, giây nhợ, màu sắc, hoa hoè đều chỉ đáp ứng cho nhu cầu lễ nghĩa trong chốc lát. Cuối cùng chúng đều thành rác, những thứ rác khó phân hủy. Khi bị đốt khói bụi của chúng sẽ gây ô nhiễm cho môi trường.
Trong quy trình chế tạo những sản phẩm bao bì, nhà sản xuất phải dùng thêm nguyên liệu và năng lượng. Phế liệu, chất thải và khói bụi từ nhà máy càng gây thêm ô nhiễm lớn cho đất, cho không khí, cho thủy vực và cho những kẻ không ăn xô-cô-la.
Chúng ta nghĩ sao về những con số thống kê chỉ rõ rằng khoảng 20% dân số thế giới (chủ yếu tại các nước công nghiệp) tiêu thụ khoảng 80% năng lượng toàn cầu. Và khoảng 80% dân số thế giới (tập trung tại các nước đang phát triển) chỉ tiêu thụ khoảng 20% năng lượng toàn cầu? Ai chịu trách nhiệm nặng nề về khí thải ô nhiễm?
Chúng ta đánh giá như thế nào đối với người hài lòng trả thêm tiền cho bao bì song lại rất do dự trong việc cho vài đồng để cứu đói?
Những lời kêu gọi con người "phải thay đổi quan niệm sống" và "quan niệm về giá trị từng quen hiểu xưa nay", "phải giảm dần và loại trừ những phương thức sản xuất và tiêu dùng" quả thực đã làm mát lòng cho kẻ nặng nghiệp bảo vệ môi trường. Cụ thể phải thay đổi như thế nào? (21), (22) .
Phải sống "biết đủ" và "giản dị" như Kinh Từ Bi đã dạy. Đó là nếp sống rất đáng để cho Phật tử quan tâm suy ngẫm.
Xin
đọc tiếp Kinh Từ Bi :
Không
bỏ sót một hữu tình nào
Kẻ
ốm yếu hoặc người khỏe mạnh
Giống
lớn to hoặc loại dài cao
Thân
trung bình hoặc ngắn, nhỏ, thô.
Có
hình tướng hay không hình tướng
Ở
gần ta hoặc ở nơi xa
Đã
sinh rồi hoặc sắp sinh ra
Cầu
cho tất cả đều an lạc.
Đoạn
kinh nàynêu rõ những đối tượng của sự đem vui cứu khổ
là những ai. Đó là những chúng sinh khác nhau từ hình
tướng đến thể lực. Chúng phân phối trên các không gian
sống khác nhau (ở gần hay ở xa) và hiện hữu qua các thời
gian khác nhau (đã sinh hoặc sắp sinh).
Thứ nhất, tình thương "không bỏ sót một hữu tình nào" là tình thương tỏa rộng đến tất cả mọi giống loại, xuyên suốt cả không gian lẫn thời gian, trùm lên thế giới hữu hình lẫn vô hình. Đây là một tình thương vô ngại, bình đẳng, mở rộng cùng khắp vạn vật và vũ trụ. Đức Phật há chẳng dạy đệ tử: "Hãy du hành vì hạnh phúc của quần sanh, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người" đó sao? (23)
Lời khuyên "Tung rải từ tâm khắp vũ trụ" trong Kinh Từ Bi cũng nói lên yêu cầu mở rộng tình thương đến chỗ vô cùng.
Thứ hai, đoạn kinh khuyên Phật tử một cách gián tiếp rằng không nên để cho hình tướng bề ngoài che lấp cái giá trị nội tại của chúng sinh. Giá trị nội tại này là sự sống bình đẳng, là Phật tính ẩn bên sau các dáng vẻ dài ngắn, nhỏ thô, khoẻ mạnh, ốm yếu.
Như vậy tình thương rộng lớn có công năng giúp đỡ con người thiết lập lại mối quan hệ "tử tế", "thân thiện" với thiên nhiên để từ đó có thể hội nhập lại với toàn thể hệ sinh thái Quả Đất. Phải nhận thức và gìn giữ được tính toàn vẹn của hệ sinh thái Quả Đất là yêu cầu của Hội nghị Thượng đỉnh về Quả Đất.
Thứ ba, thật là kỳ diệu khi tình thương lan tỏa đến cả chúng sinh "sắp sinh ra" mà mặt mũi chưa được biết như thế nào. Chúng ta có thể hình dung tình thương vô biên như sợi giây xuyên suốt nối kết lại tất cả chúng sinh trong cùng một thế hệ và thuộc nhiều thế hệ - từ hiện tại đến tương lai -, nối kết lại chúng sinh có "hình tướng" với chúng sinh "không hình tướng" thành một mạng lưới của sự sống đa dạng. Tuy đa dạng song bình đẳng trong sự ham sống sợ chết, trong cốt lõi có mang Phật tính.
Trong mạng lưới của tình thương vô biên, không có sự khinh trọng riêng một loài nào, không có sự giết hại tàn nhẫn một loài nào, không có sự đánh giá một loài nào như hàng hóa sinh lợi. Đây là mạng lưới lý tưởng cùng tột khác hẳn mạng lưới "giữa các thế hệ " chỉ có sự hiện diện của loài người, trong đó mọi chúng sinh không thuộc giống người đều không có chỗ đứng. Hơn nữa mối giây liên kết mọi thế hệ lại với nhau, mà các Hội nghị Thượng đỉnh đã hình dung, chỉ là"sự đáp ứng một cách bình đẳng những nhu cầu về phát triển và môi trường" (24).
Thú tư, sự đa dạng của các loài luôn luôn gắn liền với sự đa dạng của hoàn cảnh và số phận. Chỉ có trí tuệ sáng suốt mới cho ta thấy rõ được từng cảnh ngộ và từng số phận. Chỉ có trí tuệ sáng suốt với lòng thương vô biên mới khiến cho người Phật tử nhạy cảm trước từng cảnh ngộ, với từng số phận để có thể đem vui và cứu khổ hữu hiệu. Sống với tình thương vô biên là sống thân thiện và đoàn kết.
Thứ năm, với lòng nhạy cảm và đem vui cứu khổ chúng sinh, Phật tử không nỡ bỏ qua số phận nào và không nỡ tàn hại sinh mạng nào. Hệ quả hiển nhiên là sự từ khước quan niệm làm chủ và thống trị vạn vật. Nơi nào còn có áp lực, còn có sợ hãi, còn có giết hại dưới sức mạnh của thống trị thì nơi đó chưa có hạnh phúc chân thật. Bởi vậy đức Phật dạy: hạnh vô úy thí là hạnh cao nhất, giới sát sinh là giới đứng đầu mọi giới cấm.
Kinh
Pháp cú 129 ghi rõ:
Sống
với tình thương vô biên là sống không gây áp lực, gây sợ
hãi và giết hại, là sống trong niệm hoà bình.
Thứ sáu, trên bình diện xã hội loài người, sự chia cơm xẻ áo, sự xoá bỏ ngèo nàn, sự lấp hố sâu phân chia xã hội giàu nghèo mà các Hội nghị Thượng đỉnh nói đến sẽ được giải quyết tốt đẹp với tâm Từ Bi.
Chúng
tôi xin đọc tiếp Kinh Từ Bi :
Như
mẹ hiền thương yêu con một
Dám
hi sinh bảo vệ cho con
Với
muôn loài ân cần không khác
Lòng
ái từ như bể như non"
Đoạn
kinh này chủ yếu nhắm vào con người. Lừa dối, khinh dễ
và giận dữ là ba tính bất thiện. Chúng làm mất sự tin
cậy, mất đoàn kết, mất an vui và mất hoà bình giữa con
người và xã hội. Chúng trái ngược với hạnh Từ Bi. Phật
tử đều biết câu:
Lửa sân hận thiêu rụi cả rừng
công đức.
Khổ đầu của đoạn kinh là lời khuyên vừa mang tính ngăn ngừa những điều bất thiện có thể phát sinh vừa chận đứng lại những điều bất thiện đã phát sinh, không để chúng trở nên trầm trọng tạo thêm quả báo nặng nề hơn do "mưu toan gây khổ cho nhau". Nhìn kỹ, đây là yêu cầu cần phải thực tập hạnh tinh tấn trong quá trình thực hiện Từ Bi.
Khổ kế tiếp đã cụ thể hóa lòng Từ Bi bằng sự so sánh tình thương yêu của người mẹ hiền dành hết cho đứa con duy nhất của mình. Đây là tình thương yêu không bờ bến, rất mãnh liệt khiến người mẹ dũng cảm lấy trách nhiệm bảo vệ cho con, dám hy sinh vì con. Đối với muôn loài, Kinh Từ Bi cũng khuyên Phật tử nên hành động như vậy.
Trong khía cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, Hans Jonas, một triết gia nổi tiếng về đạo đức sinh thái, đã đưa nguyên tắc hành động có trách nhiệm đối với sự sống của con người qua câu nói được tạm dịch như sau: "Bạn hãy hành động sao cho những tác động dễ hòa hảo với sự sống thường trực và thực sự của con người trên Quả Đất" (26).
Đức
Phật đã từng dạy đệ tử cách hành xử "bất hại" (ahimsa)
đầy trách nhiệm đối với người và thiên nhiên:
Bất
hại chứa đựng ý nghĩa biết tôn trọng khách thể , vừa
không xâm phạm hay làm tổn hại khách thể vừa che chở cho
khách thể. Như vậy hành động bất hại mang tính hợp tác
và cộng sinh như ong với hoa.
Jonas nói về tác động của hành động: tác động dễ hoà hảo (hay hài hòa). "Dễ hoà hảo" là thế nào? Không thể đánh giá chính xác được. Trách nhiệm mà Jonas nói đến là trách nhiệm uyển chuyển rất khó đánh giá. Trong khi ấy hành động "bất hại" có tiêu chuẩn rõ rệt: không hại sắc, không hại hương và che chở hoa như ong với hoa. Hành động bất hại mang tính rốt ráo không khác nào hành động của "người mẹ hiền thương yêu con một, dám hy sinh bảo vệ cho con". Chỉ có hàng Bồ Tát mới thực hiện nổi. Thiết nghĩ, người mẹ hiền với tình thương vô bờ bến đối với con, dám hy sinh vì con cũng có thể xem như là vị Bồ tát của đứa con.
Thật
hợp lý khi đức Phật khẳng định trong đoạn kinh cuối cùng
rằng người Phật tử sẽ "thoát khỏi luân hồi" nếu tiếp
tục phát triển tình thương đến tận vô biên như hai câu
sau đây:
Sống
bất hại, sống hy sinh vì mọi loài một cách rốt ráo thật
không dễ bởi vì con người là thành viên của cộng đồng
sinh vật trên Trái Đất. Sự sống còn và sự phát triển
của con người hoàn toàn tùy thuộc vào thực phẩm, nước
uống và không khí của Trái Đất. Vì vậy mọi hành động
nuôi dưỡng và phát triển sự sống không thể nào tránh khỏi
sự xâm phạm trực tiếp hay gián tiếp đến loài này hay loài
khác thuộc giới động vật hay thực vật. Thực hiện rốt
ráo hạnh "bất hại" đối với hàng Phật tử tại gia thực
vô cùng khó khăn.
Chúng tôi ý thức rõ rằng mình là kẻ sơ cơ nặng nghiệp nên không thể lớn lối bàn vào nội dung của mấy khổ kinh cuối cùng, mà chúng tôi nghĩ rằng đó là nội dung lý tưởng của hàng Bồ Tát.
Chúng
tôi xin đọc tiếp những câu chót để giữ sự tròn vẹn
của bản kinh.
Khi
đi, khi đứng hoặc nằm ngồi
Hễ
lúc nào tinh thần tỉnh táo
Phát
triển luôn dòng chính niệm này
Là
đạo sống đẹp cao nhất đời
Đừng
để lạc vào nơi mê tối
Đủ
giới đức, trí huệ cao vời
Và
dứt bỏ lòng tham dục lạc
Được
như thế thoát khỏi luân hồi.
Tóm
lại, Kinh Từ Bi đưa ra một con đường tu học cao đẹp để
Phật tử hướng đến một đời sống lý tưởng. Nội dung
của đời sống lý tưởng này bao gồm: mở rộng trí tuệ
và nhận thức để thấy được mạng lưới tương quan tương
duyên giữa vạn vật và mọi hiện tượng; mở rộng tình
thương đến muôn loài; thấy rõ tính bình đẳng của sự
sống; đạt được hoà bình của nội tâm; đóng góp cho hoà
bình và văn minh nhân loại; gìn giữ tính toàn vẹn của các
hệ sinh thái Quả Đất; sống thân thiện với mọi loài; chuyển
dần những thói quen sống lãng phí có hại cho môi trường,
sống biết đủ và giản dị nhằm cởi trói những lệ thuộc
vào nếp sống bề ngoài; đóng góp phần bé nhỏ của mình
vào việc kiến tạo sự nghiệp văn minh và hoà bình cho nhân
loại mà cộng đồng các quốc gia trên thế giới đang góp
sức xây dựng.
6. Vài khó khăn cần vượt qua
Thể hiện những điều nêu trên đây không phải là một việc dễ. Trong đời sống thiết thực hiện tại sự học tập và triển khai một nghề nghiệp trong sáng theo quan niệm "Ngũ Minh" - để có thể góp phần phát triển kỹ thuật ít gây ô nhiễm và phương thức canh tác cung cấp thức ăn sạch - là một việc khó làm. Càng khó làm hơn nữa là công nhận và thực hiện sự bình đẳng giới tính, điều mà các Hội nghị quốc tế không ngừng đòi hỏi. Lấy Trí và Đức để làm thước đo, để đối đãi với nhau có lẽ là một giải pháp ổn thỏa. Trí và Đức là hai điều quyết định ai là kẻ xứng đáng làm người "Bà La Môn" như kinh Pháp Cú đã dạy.
7. Kết luận
Con đường tu học và thể hiện Từ Bi là một con đường khó khăn và dài vô tận, nhất là khi gặp những hoàn cảnh mâu thẫn giữa "ta" và "đối tượng bên ngoài". Song một khi đã ý thức rằng kiếp người thật vô cùng ngắn ngủi và không thể ẩn trốn nơi đâu để thoát nghiệp thì không thể không tinh tấn và tùy duyên thực hành hạnh Từ Bi.
Chiến lược "Phát triển bền vững" được xem là chiến lược dài hạn, không phải chỉ cho thế kỷ mà cho cả thiên niên kỷ. Quyết tâm hành động của những người theo đuổi việc thể hiện các mục tiêu lý tưởng của Chiến lược này rất đáng để người Phật tử suy ngẫm mỗi khi đọc lời nguyện:
"Chúng
sinh vô biên thệ nguyện độ.
Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành".
Kinh Từ Bi là một bản kinh kỳ diệu. Nội dung của Kinh có thể tóm gọn trong một câu:
Muốn được hạnh phúc và an lành cho mình thì trước hết phải đem hạnh phúc và an vui đến cho người trước đã.
Chú thích
1. "Intergovermental conference of experts on the scientific basis for rational use and conservation of the resources of the biosphere", Paris, từ 04.-13. tháng 9 năm 1968
2. Cục Môi trường: Hành trình vì sự phát triển bền vững 1972-1992 -- 2002, Hà Nội, 2002, tr.12.
3. Cục Môi trường, sđd: Tuyên bố Stockholm về môi trường con người, tr. 13.
4. Stiftung Entwicklung und Frieden: Sau Hội nghị Thượng đỉnh (Nach dem Erdgipfel), Bonn 1993, tr. 211-252
5. Stiftung Entwicklung und Frieden: sđd, tr.174
6. Cục Môi trường, sđd: Diễn văn khai mạc của Phó Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Nitin Desai tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững, tr. 30
7. Cục Môi trường, sđd: Phát biểu bế mạc của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững, tr. 42
8. Cục Môi trường, sđd: Tuyên Bố Johannesburg về Phát triển bền vững, nguyên tắc 2 và 3, tr. 24
9. Cục Môi trường, sđd: Phát biểu chào mừng của Tổng Thống Nước Cộng Hoà Nam Phi Thabo Mbeki tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững, tr. 38
10. Cục Môi trường, sđd: Diễn văn khai mạc của Nitin Desai, tr. 31
11. Cục Môi trường, sđd: Tuyên bố Johannesburg, tr. 26
12. Cục Môi trường, sđd: Tuyên bố Stockholm, tr. 12-16
13. Sàntideva: Bodhicarỳavatàra (Nhập hạnh Bồ Tát), Việt dịch: Nguyên Hiển, Chương 6: Nhẫn nhục, điều 31, XB: Hội Phật học Phổ Minh, 2005, tr. 61
14. Cục Môi trường, sđd: Tuyên Bố Johannesburg, điều 12 và 13, tr. 25
15. Cục Môi trường, sđd, Tuyên bố Johannesburg, điều 13, tr. 25
16. Cục Môi trường, sđd; Tuyên bố Johannesburg, điều 12, tr. 25
17. Cục Môi trường, sđd: Tuyên bố Rio, nguyên tắc 9, tr. 20
18. IUCN (Hiệp hội Quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên), UNEP (Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc) WWF (Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên): Cứu lấy Trái Đất (việt dịch từ Caring for the Earth), Hà Nội, 1993
19. IUCN, UNEP, WWF, sđd: tr. 19
20. IUCN, UNEP, WWF, sđd: tr. 55
21. Schweizer, A. Kultur und Ethik (Văn hoá và Đạo đức), câu:" Ethik ist ins Grenzlose erweiterte Verantwortung gegen alles, was lebt", München 1990, tr.332
22. Boff, Leonardo: Quả Đất: Ngôi nhà của chúng ta (Unser Haus: die Erde, H. dịch sang Đức ngữ từ nguyên văn Bồ Đào Nha), Düsseldorf 1996, tr. 219
23. Hội Phật tử Việt Nam tại Pháp,Thiền đường Trúc Lâm: Nghi Thức Lễ Phật- Kinh Từ Bi, Paris 1978, tr. 14-16
24. Nyanaponika, Mahathera: Sutta-Nipàta, Konstanz 1977, tr.58-59
25. Nyanaponika, M., sđd: tr. 256
26. IUCN, UNEP, WWF, sđd: tr.14
27. Cục Môi trường, sđd: Truyên bố Rio, nguyên tắc 9, tr. 20
28. Tương Ưng I, tr. 128
29. Cục Môi trường, sđd: Tuyên bố Rio, tr. 9
30. Trí Quang (biên tập): Pháp Cú Nam Tông, Kệ 129, Ấn tống 2002, tr. 64
31. Cục Môi trường, sđd: Tuyên bố Rio, nguyên tắc 2, tr. 19
32. Cục Môi trường, sđd: Tuyên bố Rio, nguyên tắc 12, tr. 20
33. Jonas, Hans: Das Prinzip der Verantwortung. Versuch einer Ethik für die technologische Zeit (Nguyên lý của trách nhiệm, Thử tìm một đạo đức cho thời đại công nghiệp) Frankfurt a. M. 1984, tr. 36
* * *