Chim Việt Cành Nam          [   Trở Về   ]         [ Trang chủ ]            [   Tác giả  ] 
 
Ngọc Lan
 

Sóng Việt  sưu tầm và biên soạn

Lời mở đầu

Ngọc Lan la tên một loài hoa. Hoa Ngọc Lan đã được văn nhân nghệ sĩ nói đến với nhiều cảm tình đặc biệt, có những nghệ sĩ đã viết thơ làm nhạc ca tụng hoa Ngọc Lan, hoặc so sách hoa Ngọc Lan với một người đẹp nào đó. Và Ngọc Lan cũng là biệt danh của một nữ ca sĩ rất đẹp đã qua đời khi tài sắc còn đang trên đường danh vọng.

Bài viết ngắn này là một tổng hợp ngắn nói về hoa Ngọc Lan và văn chương nghệ thuật có liên hệ đến Ngọc Lan.

Nguồn gốc cây Ngọc lan

Cây Ngọc lan thuộc Chi Ngọc lan (Michelia)hay chi Giổi (Magnolia) thuộc họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi Ngọc lan (Michelia) có khoảng 50 loàicây thân gỗ và cây bụithường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á bao gồm cả miền nam Trung Quốc.

Họ Magnoliaceae hay họ Mộc lan là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm (thời đại khủng long).

Những hóa thạch của cây này đã được tìm thấy trong những phiến đá trên 100 triệu năm tuổi ở nhiều nơi như châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ. Người Trung Quốc đã trồng Magnolia từ thế kỷ thứ 7 gọi tên cây hoa là hoa "Yu-Lan" có nghĩa là ("Jade Orchid") Lan Ngọc. Người Nhật Bản trồng Magnolia Stellata từ hàng thế kỷ và gọi nó là "Shidekobushi". Còn Champaca lại là đại diện cho họ Mộc Lan này ở vùng Ấn Độ, Java và quần đảo Philippine. Bạch Ngọc lan thuộc chi Michelia

Lá, hoa và hình dáng của chi Michelia (Ngọc lan) tương tự như chi Magnolia (Mộc lan), nhưng hoa của chi Michelia nói chung mọc giữa các nách lá, hơn là mọc đơn ở đầu cành như của chi Magnolia.

Một số loài, bao gồm hoàng ngọc lan (M. champaca) và M. doltsopa được trồng để lấy hoa, cả để làm cây cảnh cũng như lấy hoa thuần túy. Hoa hoàng ngọc lan cũng được sử dụng để sản xuất tinh dầu trong công nghiệp sản xuất nước hoa. Một số loài đã được đưa vào các khu vực ngoài Đông Nam Á để trồng trong vườn hoặc trên đường, bao gồm M. figo, M. doltsopaM. Champaca.

Bạnh Ngọc Lan *
Hoàng Ngọc Lan (M.champaca)*

Mặc dù loài hoa này được biết là hiện diện đã rất lâu và mỗi quốc gia có cây này đều đặt cho một tên khác, tên Magnolia chỉ đuợc gọi từ đầu thế kỷ 18. Nguồn gốc của tên "Magnolia" ngày nay: Năm 1703, nhà thực vật Charles Plumier viết về một loài hoa có trên đảo Martinique, và ông đặt tên hoa này theo tên của một nhà thực vật Pháp thế kỷ 17 mang tên Pierre Magnol. (Pierre Magnol là một giáo sư, nhà thực vật học và y học, giám đốc vườn cảnh ở Montpellier của Pháp vào đầu thế kỷ 18, ông mất năm 1715). Cây này được người địa phương (đảo Martinique) gọi là Talauma, nhưng sau đó tên Magnolia đuợc gắn với cây hoa này . Nhà thảo mộc William Sherard dùng tên này và sau đó Carolus Linnaeus dùng tên này viết trong cuốn sách Systema Naturae, in 1735. Sau khi nhiều loài khác thuộc gia đình hoa Magnolia được biết đến thì họ này được chia làm hai chi là chi Magnolia và chi Yulania. Magnolias thường thấy ở Mỹ , và Yulania ở Á châu nói chung. Dù sau này qua phương pháp DNA, khoa học gia thấy có nhiều khác biệt trong những loài đã đuợc xếp vào họ Magnoliaceae nhưng một cách tổng quát, các giòng chính vẫn được chấp nhận.

Chi Magnolia: có nguồn gốc từ châu Á sau khi được đưa sang Mỹ, Magnolia do hạp thủy thổ được trồng rất nhiều ở miền Nam. Cả hai bang Louisiana và Mississippi đều chọn Magnolia làm biểu tượng hoa cho tiểu bang của mình.

Magnolia grandiflora*
Cananga odorata*

Ngoài loại Mộc lan/Magnolia hoa lớn trên, một hai loài cũng thấy thường ỡ Mỹ là:

Magnolia stellata trắng Nhật bổn *
Magnolia denudata lai giống màu hồng*

Và còn rất nhiều loại Mộc lan khác trồng rải rác khắp nơi.

Bài viết dưới này chỉ nói đến hoa Ngọc Lan (chi Michelia)

Cây hoa Ngọc Lan Việt Nam

Ngọc lan có hai giống hoa trắng (Mechelia alba D.C) cây cao to và giống hoa vàng, cũng gọi hoàng lan (Michelia Champaca L.) thuộc họ Ngọc lan (Magnoliaceae).

Bạch Ngọc lan là cây thân gỗ khá lớn, có khi cao tới 25-30 m, tuy nhiên người ta có thể chiết cành trồng vào chậu làm cây cảnh.Lá to màu lục tươi, có lá bắp dính thành ống bao lấy chồi. Mùa hoa vào tháng 5-8. Hoa mọc thành từng bông ở nách lá phía trên ngọn, có nhiều cánh dài, mảnh, mùi thơm dịu. Ngọc lan thân lá đều đẹp, hoa nhỏ, dùng để ướp chè và cất tinh dầu nước hoa đều được. Tuy thân gỗ to xong gỗ xốp, xấu. Cây rất chịu nắng, không kén đất, xong cần ẩm.

Tại Việt Nam, Ngọc lan được trồng nhiều ở đình chùa và công viên. Cây cũng được trồng nhiều để lấy hoa cúng, và làm trang sức do hương thơm như gài mái tóc, kẹp sách và cho vào ví, túi. Nhiều bộ phận của cây ngọc lan có tác dụng làm thuốc.

Hoàng Ngọc lan: tên thường gọi : Hoàng lan, cây công chúa, ngọc lan tây, lan tua, đại lăng, y lăng. Tên tiếng Anh : Ylang-ylang, perfume tree. Tên khoa học : Cananga odorata. Sắp loại vào Magnoliales. Họ : Annonaceae

Hoàng Ngọc lan hay cây công chúa là một cây lan đại mộc (như ngọc lan hay mộc lan) trồng tự nhiên có thể đạt đến chiều cao 15 đến 25m, nhưng trồng làm cảnh hay lấy hoa, nó có thể được cắt tỉa để đạt chiều cao chỉ 1,8m. Vỏ cây màu xám trắng, lá song đính màu xanh đậm dài đến 20 cm chứa tinh dầu có mùi hăng, hoa mọc từ nách lá có mùi thơm mạnh. Hoa nở quanh năm ở các vùng khí hậu nhiệt đới. Hoa có thể cho quả chứa 10 đến 12 hạt như hạt mãng cầu. Hình thể hoa hết sức đặc biệt, hoa lớn nhưng cuống lại nhỏ nên luôn luôn rủ xuống phía mặt đất. Có hơn 6 cánh, khi còn non màu xanh nhạt, khi chín cánh màu vàng xoăn xuýt, đài hoa xòe rộng và nhọn như hình vương miện, trông như một cô gái tóc vàng đội vương miện nên được gọi bằng cái tên hết sức tượng hình là cây công chúa.
Được mô tả như một hỗn hợp mùi hương cực mạnh của lài và quế pha chút mùi cam chanh, hương hoàng lan có tác dụng định thần kinh, tạo cảm giác thư giãn và còn có một tính chất đặc biệt kích thích hưng phấn và tình ý. Tinh dầu hoa hoàng lan sản xuất nhiều nhất ở Comores (ANjouan) và Madagascar, bán rất đắt và được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp hương liệu và mỹ phẩm. (forum.caycanhvietnam.com)

Cho đến nay thì các loại sản phẩm dùng tinh dầu hoàng lan hay mô phỏng hương hoàng lan có rất nhiều. Những nước hoa nổi tiếng có hương hoàng lan có thể kể : " N° 5 " de Chanel (1921) ; " Arpège " de Lanvin (1927) ; " Chant d'Arômes " de Guerlain (1962) ; " Ylang et Vanille " de Guerlain (1999) ; " Air du Temps " de Nina Ricci (1948) ; " Poison " de Christian Dior (1985) ; " L'Instant " de Guerlain (2003).

Ylang-ylang (Cananga odorata (Baill.) Hook. et Thom., Anonacées)

Đây là một cây có mùi hương rất tuyệt. Nguyên gốc từ Phi Luật Tân và Bornea, cây đuợc nhiều nhà điều chế nước hoa của Pháp nhất là ông Jean Paul Guerlain cho trồng nhiều nhất ở Madagascar và vùng Aomores (Anjouan). Tại Hawai cũng trồng nhiều để điếu chế nước hoa. Cây mọc tự nhiên có thể cao 30 m, nhưng trong đồn điền, để tiện việc thu hái, cây đã đuợc cắt xén cho có độ cao tối đa là 2 m. Hoa thương nở quanh năm nhưng nhiều nhất từ tháng 11 đến tháng 3. Hoa thường được hái trước 9 giờ sáng. Cây trồng 10 năm sản xuất từ 10 đến 15 kg hoa một năm. Chất dầu tinh cất từ hoa đuợc những nhà sáng tạo nước hoa chế biến với mùi thơm hoa nhài dịu ngọt, đượm mùi tựa gỗ hương, cam chanh và hoa hồng.

Tưởng cũng nhắc là có hai loại Hoàng ngọc lan là Hoàng ngọc lan Ylang Ylang Cananga odorata (họ Annonaceae), và Hoàng Ngọc lan Michelia champaca (họ Magnoliaceae).

(Tài liệu tổng hợp trên internet).

Vịnh Hoa Ngọc Lan
Phan Bội Châu

Cụ Phan Bội Châu làm bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú mang tên: "Vịnh Ngọc Lan Hoa" tặng cho Hòa thượng Tịnh Khiết chùa Tường Vân với lời ghi phụ: "Trình cao Tăng Quốc sĩ Tường Vân Tịnh Khiết" (Lieuquanhue.com). Dưới đây là nguyên tádc bài thơ và vài bản phỏng dịch của người viết và một số thi hữu.

Phan Bội Châu

Vịnh Hoa Ngọc Lan
 
前身種出自蓬萊  Tiền Thân Chủng xuất Tự bồng lai 
移向菩提院裏栽 Di hướng bồ đề viện lý tài 
素蕊光爭冬夜雪 Tố nhị quang tranh đông dạ tuyết 
其芳品奪嶺頭梅  Kỳ phương phẩm đoạt lĩnh đầu mai 
香真王者天垂賟 Hương chân vương giả thiên thùy thưởng 
莊比嫦娥月暗猜 Trang bỉ thường nga nguyệt ám sai 
惟佛重來能識佛  Duy phật trọng lai năng thức phật 
慇勤惠我此花魁  Ân cần huệ ngã thử hoa khôi 
(bản Hán ngữ do nhà thơ Trần Văn Lương cung cấp)

Cái giống của kiếp trước từ chốn Bồng Lai,
Đem xuống trồng trong viện Bồ đề .
Ánh sáng của nhụy trắng cạnh tranh với tuyết đêm đông,
Phẩm thơm của nó lấn mùi thơm của cây mai đầu núi .
Mùi hương thật vương giả được trời thưởng cho,
Nét trang trọng tựa Thường Nga làm trăng ngầm ngờ vực.
Chỉ Phật tái lai mới nhận ra Phật,
Ân cần ban tặng cho ta cái hoa đẹp hàng đầu này
Trần Văn Lương diễn nghĩa
Hoa Ngọc Lan

Kiếp xưa nguyên giống chốn Bồng lai
Chuyển xuống trồng bên chướng Phật đài
Nhụy trắng đêm đông hơn tuyết sáng
Phẩm thơm đầu núi lấn mùi mai
Hương thơm vương giả trời ban thưởng
Đẹp tựa Thường Nga nguyệt tị nài
Chỉ Phật tái lai mới rõ Phật
Chu tình ban tặng diễm hoa này

Sóng Việt phỏng dịch
June 12, 2010
Vịnh Hoa Ngọc Lan

Tiền kiếp bồng lai thật chốn quê
Xuống trần bén rễ viện bồ đề
Đêm đông nhụy trắng hơn hoa tuyết
Đầu núi danh mai kém tiếng khoe
Vương giả hương thơm trời rủ thưởng
Nết Hằng so sánh nguyệt còn nghi
Lại qua chỉ Phật am tường Phật
Ơn lão - chúa hoa thỏa cận kề

Lộc Bắc
7/7/2010
Hoa Ngọc Lan

Tiền thân ngày trước chốn bồng lai
Chuyển Viện Bồ Đề trồng đến nay.
Tuyết trắng đêm đông thua nhụy sáng
Mai vàng đầu núi kém hương khai.
Trời xanh sủng ái mùi vương giả
Nguyệt khuất tự ti nét cát đài.
Duy Phật nhận ra căn ngộ Phật
Cơ duyên diện kiến tuyệt hoa này.

Tịnh Phan
06-07-2010
Vịnh Hoa Ngọc Lan

Thong dong kiếp trước giữa non Bồng,
Nay bứng về trồng chốn cửa Không.
Hương vượt cành mai thơm đỉnh núi,
Sắc tranh ánh tuyết lạnh đêm đông.
Chút mùi vương giả, trời ưng ý,
Ngàn nét đoan trang, nguyệt chạnh lòng.
Ngoài Phật tái sinh, ai biết Phật,
Thầy thương ban tặng chúa loài bông.

Trần Văn Lương phỏng dịch
Cali 7/2010
Nữ ca sĩ Ngọc Lan(1956-2001)

Tiếng hát trữ tình truyền cảm của nữ ca sĩ Ngọc Lan đã mang đến cho người thưởng ngoạn những âm điệu ngọt ngào, lôi cuốn. Với khuôn mặt khả ái, với dáng dấp mảnh mai và một ánh mắt u buồn Ngọc Lan đã tạo được cảm tình sâu đậm, và chiếm một chỗ đứng cao trong lòng giới mộ điệu âm nhạc.

Ngọc Lan tên thật là Lê Thanh Lan, tên thánh là Maria. Sinh ngày 28/12/1956 (Bính Thân), lớn lên tại Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Là người con thứ 4 trong gia đình 11 anh chị em. - con ông bà Lê Đức Mậu - ông đã phục vụ trong ngành Truyền Tin của Sư Đoàn Bộ Binh QLVNCH. Thuở nhỏ cô học trường Trung Học Lý Thường Kiệt tại Quang Trung (Hốc Môn). Cô có người chị ruột là nhà văn nữ Lê Thao Chuyên mất năm 1993. Từ bé cô đã có khiếu ca hát và ngâm thơ, cô đã hát trong ca đoàn nhà thờ, ở Việt Nam, cô đã từng là học trò của nhạc sĩ Lê Hoàng Long (tác giả bài hát nổi tiếng "Gợi Giấc Mơ Xưa").

Năm 1980 cô đã vượt biên. Tỵ Nạn tại Laemsing (Thái Lan). Thời gian này cô có hoạt động văn nghệ trong trại tỵ nạn cùng với MC Trần Quốc Bảo. Sau đó định cư tại Hoa Kỳ, thời gian đầu cư ngụ tại Minnesota. Hai năm sau, Ngọc Lan về California và khởi sự tham gia các hoạt động văn nghệ tại Orange Countỵ Còn nhớ vào năm 1982 chỉ có vài quán cà phê trong cộng đồng Việt Nam như: Café Lan, Đỉnh Thiêng, Hoài Hương - các nơi này Ngọc Lan đều góp mặt với giọng hát của mình - và Ngọc Lan đã nhanh chóng trở thành một trong những ca sĩ hàng đầu tại hải ngoại. Cô đã được ái mộ và tạo được sự thương mến của khán thính giả mọi giới. Cô hát được nhiều thể loại nhạc - từ nhạc Việt đến nhạc Pháp, Mỹ - tiếng hát Ngọc Lan như có một ma lực quyến rũ người nghe, như lời thì thầm kể lể của người tình với người tình.

Sau khi ra mắt cuốn Video ca nhạc "Mặt Trời Bên Kia Mùa Hạ" (cuốn Video này có những hình ảnh đẹp quay từ vùng biển Santa Maria với những cồn cát có tên Point Sal Dunes) - Ngọc Lan đã từng cộng tác với hầu hết các Trung Tâm Băng Nhạc tại hải ngoại - và giữa lúc sự nghiệp ca hát của cô đang lên đến tuyệt đỉnh của danh vọng, thì bỗng nhiên Ngọc Lan dần dần ít xuất hiện sau năm 1993 (sau cái chết của người chị ruột).
...
Đầu năm 1994, Ngọc Lan trở lại sân khấu vẫn với tiếng hát buồn muôn thuở, nhưng ánh mắt thẫn thờ như không còn thiết tha với cuộc đời. Và đến tháng 12 năm 1994 cô quyết định thành hôn với Mai Đăng Khoa (có tên Kelvin Khoa, một nhạc sĩ xử dụng keyboard trong ban nhạc Bolero, ban nhạc này có xuất hiện trong băng Video Thúy Nga Paris số 15 với 2 M.C. Kim Anh và Trần Quốc Bảo). Sau đó Ngọc Lan vắng bóng luôn. Vào khoảng năm 1999 tại Việt Nam có tin đồn Ngọc Lan đã qua đời vì chứng bệnh Tiểu đường, nên nghệ sĩ Nam Lộc đã dành một cuộc phỏng vấn cho vợ chồng Ngọc Lan trong chương trình truyền hình của đài Văn Nghệ VN Television vào một sáng thứ Bảy.

Có nhiều lời đồn về bệnh tình của Ngọc Lan khi thấy mắt cô bị kém thị lực. Nhưng sự thật cô bị bệnh ... Multiple Sclerosis....

Ngọc Lan trở bệnh và đột ngột từ trần ngày 6/3/01 - hưởng dương 44 tuổi.
(Đặng Hùng Sơn).

Nhạc sĩ Anh Bằng có bài nhạc Vĩnh Biệt Một Loài Hoa tặng người nữ nghệ sĩ vắn số này.

Trong Hoa Tím Ngày Xưa có ngọc lan (Nhạc Hữu Xuân, thơ Cao Vũ Huy Miên)

Con đường em về thơm hương
Ngọc lan khuya rụng trong vườn
Tiếng dương cầm đâu lặng lẽ
Đưa ta về phía cuối đường

Hữu Xuân còn có Hương Ngọc Lan

Huỳnh Nhật Tân cũng có Chuyện Tình Hoa Ngọc Lan Tìm Lại Cành ngọc Lan

Trên văn đàn thi ca, có lẽ còn rất nhiều bài nhạc viết về Hoa Ngọc Lan, nhưng có một bài nhạc mà những người yêu chuộng âm nhạc không thể không biết và người viết không thể không viết đến, đó là bài Ngọc Lan của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.

Ngọc Lan
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước

Ngọc Lan, dòng suối tơ vương,
mắt thu hồ dịu ánh vàng
Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng,
tà mây cánh phong, nắng thơm ngoài song
Nét thắm tô bóng chiều, giấc xuân yêu kiều, nền gấm cô liêu
Gió rung mờ suối biếc, ý thơ phiêu diêu
Ngón tơ mềm chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng
Dáng tiên nga, giấc mơ nghê thường lỡ làng
Ngọc Lan, trầm ngát thu hương,
bờ xanh bóng dương, phút giây chìm sương
Bông hoa đời ngàn xưa tới nay
Rung nhạc đó đây cho đời ngất ngây
Cho tơ trùng đàn hờ phím loan
Thê lương mây nước, sắt se cung đàn
Ôi tâm hồn nghệ sĩ chìm trong sương thắm
Nhớ phút khuê ly, hồn mê tuyết hoa Ngọc Lan
Mờ mờ trong mây khói, men nồng u ấp,
duyên hững hờ dần dần vương theo gió
Tơ lòng dâng bao cùng thương nhớ...

Một số chữ Hán Việt đã đuợc bàn đến trong bài viết Vài điển tích Trung Quốc trong bài nhạc Ngọc Lan của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước của Sóng Việt Đàm Giang:

http://chimviet.free.fr/truyenky/songviet/svdgn068_ngoclandientich.htm

Thắc mắc về bài nhạc Ngọc Lan như bài nhạc đã đuợc nhạc sĩ Dương Thiệu Tước sáng tác vào thời điểm nào và đối tượng trong bài nhạc là ai đã đuợc bàn luận nhiều. Sau đây là những bàn luận mới nhất do tác giả Nam Minh Bách mang lên trong một bài viết xuất hiện vào tháng Năm, 2010.

Tác giả bài viết Mối Tình Học Trò, Nam Minh Bách nói rằng ông viết lên theo lời yêu cầu của thân nhân ruột thịt của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước kể lại, và chính ông cũng là một nhân chứng của câu chuyện. Bài viết đuợc mang lên với sự chấp thuận của tác giả.

Mối tình học trò

Nam Minh Bách

Năm 2000 tôi về thăm Hà Nội, bạn bè cho đọc một bài báo trên tờ Công An lúc đó làm dân Hà Nội xôn xao và bàng hoàng. Nhân dịp năm thứ 5 kỷ niệm ngày vĩnh biệt nhạc sĩ Dương thiệu Tước, ông được ca ngợi là nhạc sĩ đã có công hòa hợp cổ nhạc và tân nhạc, đặt nền móng cho tân nhạc Việt Nam được phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay. Và trong mấy dòng tiểu sử, có nhắc tới mối tình đầu của chàng trai "con cụ Thương Tá Hưng Yên và nàng con gái con cụ Tổng Đốc Hưng Yên Vi văn Định, chàng và nàng yêu nhau thắm thiết và hai gia đình đã trao đổi trầu cau" . Nhưng tình duyên dang dở xé đôi vì một chàng trai bằng cấp đầy mình đã nộp đơn, loại được anh chàng nhạc sĩ hữu tình nhưng không hữu tài này. Dĩ nhiên tài nói đây là tài khoa bảng . Con người diễm phúc lấy được nàng, theo báo Công An là chàng Bác sĩ tây học từ Paris trở về họ Hồ Đắc, con một Đại thần lớn nhất Triều Đình.

Chỉ mấy ngày sau, Gia Đình Hồ Đắc phản ứng ngay, nhà báo nói láo ăn tiền, bà Vi Kim Phú tức là bà Hồ Đắc Di, phu nhân vị cố Khoa trưởng Đại học Y Khoa Hà Nội không bao giờ đính hôn với nhạc sĩ Dương thiệu Tước, không bao giờ có chuyện nhận trầu cau hay sêu tết gì. Báo Công An lịm đi không trả lời vì họ Hồ Đắc lúc ấy mạnh lại, cũng có bài báo Công An đề cao nhà chí sĩ ái quốc Hồ đắc Trung, lại một bàng hoàng nữa cho dân Hà Nội.

Nhưng báo Công An không xin lỗi, không đính chính vì chỉ lầm có một nửa, nàng trả lại trầu cau là nàng chị chứ không phải nàng em, tuy đám cưới sau em một năm, năm 1936. Nàng Vi Kim Ngọc cũng đẹp lộng lẫy như bà em, hai chị em nổi tiếng Bắc Hà trong thập niên 30 vì sắc đẹp cũng như vì gia thế, sinh trưởng tại gia đình quyền thế nhất Bắc Hà thời đó, gia đình họ Vi.

Báo Công An chỉ còn một nước là rỉ tai và dân Hà Nội bàn tán. Và họ biết là ông Nghè tây diễm phúc lấy được nàng là chả ai xa lạ với dân Hà Nội, Ngài Bộ trưởng Giáo dục 30 năm của Chính phủ Phạm văn Đồng, dân Hà Nội thời thập niên 30 gọi là ông Nghè Huyên, họ Nguyễn.

Đến lượt gia đình họ Nguyễn phải ra tay, con cháu thôi vì mọi người trong cuộc đã thành thiên cổ. Bà con gái Kim Hạnh xuất bản một cuốn sách "Hồi ức về Nguyễn văn Huyên" với những dòng trang đầu sau đây:

"Cha mẹ tôi sống với nhau trọn đời hạnh phúc, được 30 năm kể từ 12/4/1936 cho đến 19/10/1075... Mẹ tôi nhớ lại ngày đầu quen biết trong nhật ký. Em đi chơi cùng cha mẹ vào Huế, khắp Trung Kỳ rồi Lục tỉnh Cao Mên, Thái Lan.. . Nhiều chiêu đãi quốc tế họ trầm trồ khen ngợi em là giai nhân...Đôi ta gặp nhau ở Huế, hội lễ Nam Giao sau đó em tiếc không từ biệt anh . Khi lên xe cha đưa thư anh Toại, (bác Phan kế Toại chồng chị Mão là chị của cha tôi) cho em xem. Thư cầu hôn giữa anh và em. .. Sau đó bà ngoại mấy lần nhận điện từ Hà Nội cầu hôn...Khi có thư trực tiếp viết cho ông ngoại "gửi lời thăm em người đáng yêu nhất " thì em mới nhận lời để nhà trai xuống Thái Bình cầu hôn.

"Mẹ tôi kể năm 13 tuổi, ông tôi nhận gả mẹ tôi cho người họ Dương thiệu. Năm 16 tuổi khi biết đưọc, mẹ tôi nhất định đòi ông tôi phải trả lại sêu ba năm (trả lại sêu tết chứ không trả lại trầu cau ?) . Vì mẹ tôi không chấp nhận cha mẹ đặt đâu ngồi đấy. Bà ngoại tôi bị cảnh năm thê bảy thiếp thật là đau khổ.

"Mẹ tôi ghét cay đắng quan lại xu nịnh, năm thê bảy thiếp, chế độ phong kiến. ... Bác Hồ mang lại hạnh phúc thực sự cho phụ nữ cho nên phụ nữ rất biết ơn Bác Hồ kính yêu. Hồ Chí Minh là người có đạo đức vĩ đại nhất, đưa giới phụ nữ ra khỏi chế độ phong kiến hà khắc cổ hủ.

"Năm 1977 sau khi cha tôi mất được 2 năm Mẹ tôi viết" Ước mơ của em khi đôi tám xuân xanh là quyết chọn người tài đức mới trao thân. Nếu không gặp được nam nhi hào hùng đó thì ở một mình xuốt đời, Thế mà em đã mãn nguyện"

Và trang sau có nhắc tới Dương thiệu Tước, được tin do một bạn cũ nhắn từ Dà Lạt năm 1976, gặp Dưong thiệu Tước và bà Minh Trang lên chơi Đà Lạt, như nói qua về một người vô tình nhớ tới, không lấy gì làm quan trọng..

Người con gái bênh vực Bố Mẹ là một điều đáng khen, rất thông cảm. Bác Tước, vì bác là chi trên, cháu nội Dương Khuê chúng tôi gọi là Bác Cả Tước, không thể ví với người Cử nhân Luật và Tiến sĩ Văn Chương Đại học Montpelier, Bộ trưởng Giáo Dục 30 năm. Bác cuối cùng leo lên chức Chủ sự ban Âm nhạc trong Đài Phát thanh Sài Gòn, cả đời sống thanh bạch nhưng rất lương thiện. Chọn người tài đức, nam nhi hào hùng mới trao thân, có phải là chọn công hầu khanh tướng? Nhưng công hầu khanh tướng cổ nhân đã nói trên trần ai ai dễ biết ai, phải mấy chục năm mới biết.

Báo Công An đề cao Bác cũng là vì Bác tôi có tài đức gì đó, có mấy người được như vậy. Công An là "bạn dân, mũi nhọn và lá chắn của Cách Mạng" dân Hà Nội nghe thấy tiếng là khiếp sợ, vậy mà minh oan cho Bác tôi, chả phải khanh tướng một chút nào chăng.

Chúng ta đều biết rõ Nhạc sĩ Nguyễn văn Khánh sáng tác bài Chiều vàng ra sao, anh chàng si tình này thường đáp tàu hỏa thăm hôn thê miền mạn ngược,lần cuối cùng được thân nhân chỉ ra ngôi mộ mới đắp bên đồi thông. Cũng được biết anh chàng trung úy Nguyễn văn Đông suy nghĩ sao khi sáng tác Phiên gác xuân, anh buồn nhưng không bao giờ phản chiến như Trịnh công Sơn vì phải bảo vệ Bố Mẹ bị đấu tố là địa chủ, và Bố Mẹ người yêu bị trôi sông vì buộc tội địa chủ gian ác.

Nhưng Nhạc sĩ Dương thiệu Tước là một bí hiểm cho bao nhiêu nhà bình luận, sáng tác 200 bài mà hầu như bài nào cũng là mối tình trong trắng bất diệt trong dĩ vãng xa xa lắm, đẹp đẽ vô ngần nhưng tuyệt vọng đau thương. Có một quãng đời Dương thiệu Tước không bao giờ chia sẻ cùng ai, ngay cả vợ con hay bà con thân thuộc. Có lẽ vì quá đau thương. Chỉ chia sẻ cho âm nhạc, khi gặp lại những cảnh thân thuộc thời trẻ dại của mối tình đầu như Chùa Hương hay Bến Ngự.

Năm đó là đầu thập niên 1930 ở tỉnh lỵ Hưng Yên, chàng 15 tuổi và nàng 13. Chàng là con cụ Thương tá Dương tự Nhu sau này lên Bố Chánh và nàng là con cụ Tổng Đốc Vi văn Đinh. Tư dinh hai nhà gần nhau trước mặt là một hồ bán nguyệt rộng lớn chia đôi bởi môt đường đê nhỏ, hai hồ thông nhau bằng môt con lạch có môt cầu vồng sơn đỏ nối liền .Rất tĩnh mịch, rất nên thơ nhất là khi ánh trăng êm dịu toả xuống bát ngát..

Cầu đỏ trên hồ là nơi trẻ con tụ tập nô đùa, câu cá lúc hè bãi trường, chàng học trung học Hà nội, nàng học trường tiểu học tỉnh nhà. Họ quen nhau ở đó, nàng tuổi dạy thì và bắt đầu xinh đẹp còn chàng cao ráo khôi ngô, cái khác thường là nàng từ miền sơn cước tới, có giáo dục cầm kỳ thi họa kèm thêm là cưỡi ngựa bắn súng, hồn nhiên mạnh bạo chứ không thẹn thò bẽn lẽn như tiểu thư đồng bằng. Chàng là con trai độc nhất cụ Nhu có truyền thống âm nhạc từ Dương Khuê trở xuống. Cụ Nhu cũng như Dương Khuê nổi tiếng về văn nôm và ca trù sau này hậu sinh làng ca trù còn biết. Bác Tước được cụ truyền lại từ trống, phách và đàn đáy và ca ngâm văn thơ.. Năm 7 tuổi Bác tôi được thân phụ cho một cây đàn nguyệt nhỏ, sau đó là đàn bầu, đàn tranh và thập lục và sau này sử dụng 7 thứ đàn cả cổ nhạc lẫn tân nhạc.

Chàng sử dụng Tây Ban Cầm và Hạ Uy Di Cầm hay có tiếng ở Hà Nôi và trên cầu hồ bán nguyệt những khi gió mát trăng thanh chàng ca những bài nổi tiếng Tino Rossi và Josephine Baker, giọng ca ngọt như mía lùi. Việc gì xảy ra là phải xảy ra, chàng và nàng yêu nhau thắm thiết với mọi sự bồng bột và trong trắng của mối tình đầu. Họ Vi biết ngay và biết rõ cậu cả cháu nội Dương Khuê này, cao lớn mặt mày sáng sủa, tính nết hiền hậu nên chịu ngay. Cụ Tự Nhu mất sớm khi còn tại chức vì vậy mới trầu cau trao đổi và đôi trẻ chính thức đính ước, Bác Tước tôi chính thức được yêu một giai nhân bậc nhất Bắc Hà. Diễm phúc thay ông Bác tôi..

Bài "Vừng trăng sáng" là một bài ca duy nhất ca diễm phúc mà không có khóc than. Kìa vừng trăng sáng Chiếu in trên hồ Dưới là trăng nước Sóng lan nhấp nhô Mặt hồ rung rinh Dưới khung trời tím Có anh cùng em Chúng ta vui hòa trong một chiều thu Đắm say dưới trăng ".

Chàng dậy nàng ca hát " Trời xanh thắm "

Còn đâu như lúc xưa Ngày đôi chúng ta còn thơ So phim tơ trên thềm Anh hòa theo lời em Ngàn lời ca êm ái

Nhưng bầu trời mầu hồng êm ả đã có những mây đen kéo tới. Nhà gái dần dần biết là Bác tôi học Tú Tài chỉ là phụ, chính thực là học Âm Nhạc trường Ecole francaise de Musique en Extrême Orient tại Hà Nội, cùng với Nguyên xuân Khoát.Nguyễn xuân Khoát chuyên về Dương Cầm, ông Bác tôi chuyên về Tây Ban Cầm. Và Bà Mẹ vợ tương lai với trực giác rất nhạy cảm của Bà Mẹ đã nếm cảnh năm thê bảy thiếp của ông chồng, dần nhận ra nguy cơ cho cô con gái quý. Anh chàng này đẹp trai quá, đa tình quá, đàn hát hay quá, sẽ là một tai họa cho nữ giới nói chung cũng như ông nội nổi tiếng Bắc Hà khi trước.Và khi trường Ecole Francaise de Musique en Extrême Orient sau ba năm hoạt động phải đóng cửa vì kinh tế khủng hoảng là Bác tôi lâm vào cảnh nửa ông nửa thằng, xướng ca vô loài có người bên nhà gái đã chê như vậy. Vì nàng đẹp quá nổi tiếng quá nên ai cũng biết yếu điểm của chàng, bên họ Dương có những bà cô chua ngoa tuyên bố, Bác Tước mặt sáng như gương tầu mà mảnh bằng không có.

Rồi họ Vi thuyên chuyển từ Hưng Yên về Thái Bình, dinh Tổng Đốc Thái Bình cạnh nhà tôi, gần đến nỗi kẻ viết bài này lúc 4 tuổi một hôm quần thủng đít bắt chuồn chuồn tại bờ hồ sen sau nhà nghe có người kêu lên" Chuồn chuồn có cánh thì bay có thằng ỏng bụng thò tay bắt mày". tôi còn nhớ cái áo the đen và cái bài ngà trước ngưc, họ Vi có tiếng là hay dỡn. Vì gần như vậy và hai nàng đẹp nhất BắcHà nên nhà tôi lúc nghỉ hè sao mà đông các cậu lượn như đèn cù ở vườn sau trông ra Dinh Tổng Đốc.. Nhất là hai nàng học Tiểu Học trường tỉnh cùng các chị tôi. Nàng em được một ông chú tôi bám sát và thành công đến nỗi chàng đề nghị đổi tên nàng từ Phú ra Lan, đẹp hơn và nàng chấp thuận. Bác Tước cùng ông chú cộng tác sáng tác bài ca Ngọc Lan ca tụng hai nàng . Nhưng bài này phải tớì năm 1953 mới ra đời vì năm 1935 Bác Tước đại hoạn nạn tại Huế Trong gần 20 năm trời Bác Tước cố quên đi hai chữ Ngọc Lan.

Năm 1935 Nàng em vẫn phải bước lên xe hoa cùng một ông Nghè tây nghành Y, tôi đứng xem các bà khăn vành dây vàng áo vàng lũ lượt hàng hai bước vào Dinh đón dâu tưởng như cả triều đình Huế đã tới.

Bạn có thể hỏi tôi viết những chuyện này làm gì, chuyện chàng trai 19 tuổi (1) nhìn ngườì yêu dấu bước lên xe hoa theo con người địa vị danh giá nhưng hơi già là chuyện nơi nào chả có, anh, tôi đều đã trải qua. Nhưng anh, tôi đâu có sáng tác được bài Ngọc Lan 50 năm sau dân Việt Nam còn ca, anh và tôi đâu có được lên báo Công An ca tụng. Họ ca tụng vì đến năm 2000 tình hình xã hội và đất nước bắt đầu có những bế tắc về tư tưởng, văn hóa, không khác gì những bế tắc năm 1930. Họ cần đến những con người có khả năng khai thông văn hóa dân tộc như Phạm Quỳnh và Dương thiệu Tước. Phạm Quỳnh thập niên 30 đặt vấn đề, yêu nước là chiến tranh chống Pháp hay mở mang trí tuệ đại chúng trước. Không có Quốc ngữ làm quốc văn, không có Văn Học Việt Nam thuần túy thì đừng nói tới yêu nước nữa. Âm Nhạc là bộ phận quan trọng của Văn Học, Dương thiệu Tước đảm nhận trách nhiệm của mình về Âm Nhạc, không có Phạm Quỳnh thì không có Tự Lực Văn Đoàn, không có Thế Lữ, Thạch Lam Nguyễn tường Long, Xuân Diệu và cả Tố Hữu nữa. Làm sao có Cách Mạng được. Không có Dương thiệu Tước thì không có Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy làm sao có Cách Mạng tháng 8 được. Nhờ có Phạm Quỳnh và Dương thiệu Tước Văn Học Việt Nam lần đầu tiên thoát khỏi quỹ đạo Văn Học Trung Quốc, và cũng thoát khỏi quỹ đạo Văn Học Pháp Quốc, gạt bỏ những hủ nho, hủ tây, và sau này hủ cộng nữa.Theo Phạm Quỳnh thì nhờ quốc ngữ, Văn Học Việt Nam có lợi thế hơn Trung Quốc. Chữ quốc ngữ nhân dân chỉ mấy tháng là đọc được sách, tiếng nói đồng nhất với chữ viết không như Trung Quốc, truyện Kiều được đọc tại những nơi nông thôn hẻo lánh nhất, không phải truyền khẩu như trước. Kim Vân Kiều vừa là một thứ Kinh Thánh, một áng văn chương tuyệt tác, vừa là một Tự Điển ghi chép mọi tình cảm và hiểu biết của dân Việt qua bao nhiêu thế kỷ. Quốc văn còn là truyện Kiều còn, truyện Kiều còn là nước Nam còn, Phạm Quỳnh khẳng định như vậy.

Phạm Quỳnh được Hội Nhà Văn Việt Nam phục hồi danh dự từ năm 2005, có những bài khảo cứu ở Hà Nội rất thán phục tầm nhìn xa của ông và tư tưởng rất vững vàng về văn minh Việt Nam, Pháp hay Trung Quốc. Báo Người Hà nội năm 2007 có bài của Nguyễn Ngọc nói "Phạm Quỳnh là người khổng lồ trí tuệ uyên thâm, hiểu sâu văn hóa phương đông, tự học mà chiếm lĩnh văn hóa phương tây rất cơ bản. Pháp văn của ông cực kỳ sang trọng và trong sáng...Thiết tha yêu dân tộc ... Vấn đề ông đặt đến nay vẫn thời sự. ..Ám chỉ trả lại sự công bằng cho ông". Phạm Quỳnh có nhấn mạnh, nếu không có Văn Học độc lập tự chủ thì dù có Độc Lập cũng không giữ được nước.

Và đến nay Văn Học yếu kém, Âm Nhạc yếu kém , đạo đức yếu kém, giáo dục yếu kém vì vậy mới nhớ tới Phạm Quỳnh và Dương thiệu Tước.

Cả Phạm Quỳnh cùng Dương thiệu Tước đều tự học mà làm nên lịch sử, tìm được con đường ra khỏi bế tắc cho dân tộc vào thập niên 30. Các vị khoa bảng không làm được điều đó..

Năm 1934 Bác Tước tôi còn tràn ngập trong yêu đương và hạnh phúc. Chàng và Nàng nắm tay nhau thăm chùa Hương và nhân tiện qua thăm Vân Đình quê Chàng. Dĩ nhiên là dưới sự giám sát của bà Mẹ Nàng. Phải đến 1935, cùng gia đình Nàng đi thăm Tế Nam Giao ở Huế, và Bến Ngự ,sông Hương, mối tình như keo sơn gắn bó tan như mây khói, chỉ vì Nàng đẹp quá.

Cụ Tiên Điền Nguyễn Du nói, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Đáng lẽ cụ phải thêm chữ sắc vào đó. Người Pháp cũng có câu khi cô dâu đẹp quá là có biến.

Lễ Tế Nam Giao năm đó có vua Bảo Đại lần đầu tiên ra mắt quần chúng, nhiều kỳ vọng vào ông Vua tây học trẻ đẹp trai này. Danh nhân tài tử cả nước vô Huế coi Thiên Kiệu nhà vua đi từ cổng Ngọ Môn Hoàng Cung di qua Trục Thần Đạo thẳng tắp tới Đài Đàn Nam Giao 3 tầng, tam tài Thiên Địa Nhân. Dân chúng hai bên đường thấy nhà Vua ngồi kiệu, hai bên binh lính bồng súng hộ tống, đi trước có Đoàn vũ nhảy múa, có Ban Nhạc nhà Vua đánh trống thổi sáo và sau cùng là văn võ bá quan cùng long tượng.

Nhưng dân chúng cũng sửng sốt ngắm một căp giai nhân đẹp như thiên thần giáng thế. Chàng là Bác tôi, cao to như Bảo Đại, nhưng mặt mũi thanh tú như một ông Nghè chính cống, tóc đen mượt, môi đỏ thắm, miệng bao giờ cũng mỉm cười và đôi mắt cười theo. Còn Nàng thì thân hình mềm mại cân đối, trên cổ tròn trắng nuốt là khuôn mặt tươi đẹp như bông hoa ngọc lan nở rộ trong rừng Việt Bắc.

Một ông Nghè tây và bà chị ngây ngất nhìn Nàng và nhanh chóng quyết định (2). Họ đến chào hỏi gia đình họ Vi, họ cũng là vai vế Công Thần miền Bắc, chào hỏi Nàng vài câu lấy cảm tình và ngay hôm sau nộp đơn cầu hôn. Họ biết rõ Chàng và thân thế ra sao và nhược điểm Chàng. Họ nộp đơn khi đôi trẻ vừa nắm tay nhau đi thăm Bến Ngự.

Người ta nói trong chiến tranh và tình yêu, phải sử dụng mọi phương tiện để chiến thắng. Không có gì là xấu xa khi tranh dành một người đẹp, đẹp đến nỗi không có được một người thứ hai trên cả đất Bắc.

Họ Vi nhận thư cầu hôn, không trả lời có hay không nhưng 1 tấm hình Nàng đã được trao tay. Chưa có gì thay đổi nhưng con sâu đã vào trái cây.

Vì xã hội hồi đó không phải như hồi ông Tú Xương, chỉ cần biết vài chữ Pháp làm thông ngôn là "sáng ruợu xâm banh tối sữa bò" Các nàng đòi phi cao đẳng bất thành phu phụ. Ông Nghè tây là nhất vì lương tây chức vụ cao địa vị cao. Và họ Vi còn những suy tư đặc biệt, từ miền sơn cước tới đồng bằng đã khá lâu trên thực tế thay thế Hoàng cao Khải , họ Vi học được của Hoàng cao Khải nhiều kinh nghiệm quý báu. Quyền thế sau này trong tay mấy ông Cử ông Nghè tây bằng cấp cao, liên kết với họ có thể vạn đại dung thân, từ trào này qua trào khác.Không thể tin vào con trai vì sinh vào gia đình quyền thế hay giở chứng, cả hai họ Vi và họ Hoàng đều bị con trai hay cháu ruột sang Pháp đỗ đạt và gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Chỉ tin vào con gái và những chàng rể địa vị vững như bàn thạch thì sau này về già mới yên thân được.

Bà chị ông Nghè họ Nguyễn biết rõ như vậy, bà cũng là một gia trưởng cả hai họ Nguyễn và họ Phan (2). Theo như tác giả Hồi Ký, bà cũng là một Nghè ta, đậu Sư Phạm khóa đầu tiên và trở nên Giám Đốc trường Nữ Trung Học đầu tiên Hà Nội. Lương bà 120 đồng một tháng, bà tiêu 20 còn lại gửi sang Pháp nuôi hai em đậu ông Nghè, ông Trạng sư. Một gia trưởng can đảm đáng phục và tham vọng có thừa, thảo nào ông chồng bà làm Đại thần thời Pháp, thời Nhật và thời Xã hội Chủ Nghĩa. Hai Mẹ con ông Bác tôi sao mà địch được một Thiết Kế Gia đại tài như vậy.

Trở về Bắc sau chuyến thăm viếng Huế là mọi sự bất lợi dồn dập cho ông Bác tôi: rớt Tú tài lần nữa, ông nhận được tối hậu thư, có chịu làm quan tri châu không. ? Ai tưởng tượng được ông Nhạc sĩ tài ba nhất Hà thành đeo bài ngà, tự chôn vùi tại miền sơn cước. Ông Bác tôi từ chối. Nhà gái chỉ đợi có thế, trả lại trầu cau, ông Bác tôi gạt nước mắt giã từ Nàng di theo Nghiệp tổ Âm nhạc.

Rồi đến giai đoạn quên Nàng, cố quên đi. Nàng đã dậy Chàng tình yêu bồng bột nhất, đẹp đẽ nhất, nay Nàng lại dậy Chàng quên, quên hết đi. Nhưng Chàng không bao giờ quên, ngay từ 1938 đã có bài "Tâm hồn anh tìm em" Lòng anh giá băng trong bóng sương mờ.

Không bao giờ Chàng oán trách ai, Chàng biết rõ nguyên nhân chỉ vì Chàng có tài. Tiếng xưa :" Chiều thu nhớ nhung vì đâu Thắm đôi hàng châu Tiếc thay tài cao đành lỡ làng Ai đó tri âm biết cùng".

Phải đến năm 51-53, khi gặp được nàng Minh Trang, Bá Nha gặp được Tử Kỳ, Bá Nha không có Tử Kỳ thì đàn gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn. Chàng mới lấy lại thăng bằng tâm hồn, dám ngược xuôi cả tháng tại Sông Hương Bến Ngự. Cho ký ức trở lại những ngày vô cùng êm đềm và tàn nhẫn Huế 1935. Và sáng tác được Ngọc Lan và Đêm Tàn Bến Ngự. Trút gánh nặng trong tâm hồn suốt gần 2 thập niên.

"Nhưng thoáng nghe khúc ca Nam Bình sầu than như nức nở khóc duyên bẽ bàng Ai than ai thở đời vui chi trong sương gió Ai nhớ thương ai Đây lúc đêm tàn tình đã lạt phai vương vấn bao tình Ai rứt sao đành".

Ngọc Lan ( Nhạc sĩ nhấn mạnh hai chữ Ngọc Lan phải viết hoa) : "Tơ lòng dâng bao cùng nhớ thương".

Hai bài này Bác tặng bà Minh Trang, Bà biết hết nhưng giả bộ không biết, Bà xứng đáng được tặng 2 bản nhạc này vì Bà xứng đáng chứ không phải Nàng cũ. Ông Bác tôi cuối cùng rất diễm phúc.

Tai họa lại tới năm 1975. Tố Hữu, con người lãnh đạo tư tưởng cả nước từ 1946, đuổi Bác tôi ra khỏi Viện Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn khi Bác là người duy nhất dậy Tây Ban Cầm ở Viện. "Nhạc sĩ Tư Sản, Phong Kiến, nhạc tán gái không giúp gì cho quần chúng lao đông". Đảng định đảy Bác tôi vào hố tiêu cực, "bỏ đói" như đã từng bỏ đói Phùng Quán, Trần Dần, Hữu Loan, Đoàn Chuẩn. Đã bỏ đói những ông Nghè tây như Nguyễn mạnh Tường, Trần đức Thảo vì các ông này nhớ lại khí thế của trí thức Pháp, dám khuyên Đảng coi trọng tự do và luật pháp.

Bà Minh Trang phải mang các con vượt biên để cứu sống bọn trẻ. Bác tôi ở lại kẹt thằng con trai học tập cải tạo.

Nhưng Đảng không ngờ các Nàng lại cứu sống Bác. Bà Cả và Bà Minh Trang gửi quà về nuôi. Và một Nàng nữa 22 tuổi, Nàng Nga, một cây đàn Tây Ban Nha có hạng tại Sài Gòn đã ra tay yêu mến nâng nưu ông thầy, thoát khỏi cơn cơ hàn, bàn tay mềm mại Nàng đã đánh bại Tố Hữu, Tố Hữu tưởng mọi sự đã an bài.

Cả ba Nàng (3) mỗi Nàng yêu ông Bác tôi một vẻ. Vì ông đẹp cả người lẫn tính, không Bà nào bỏ ông dù tình huống khó khăn đến đâu chăng nữa, có lẽ mối tình đầu cũng không bao giờ quên ông đâu. Ông Bác tôi là người vô cùng hạnh phúc.

Nam Minh Bách
Virginia tháng 5 2010
**
Ghi chú của Sóng Việt.

(1) Trong đoạn giữa có viết
 

"Bạn có thể hỏi tôi viết những chuyện này làm gì, chuyện chàng trai 19 tuổi nhìn ngườì yêu dấu bước lên xe hoa theo con người địa vị danh giá nhưng hơi già là chuyện nơi nào chả có..."

Chàng trai Dương Thiệu Tước sinh năm 1915, lúc đó, năm 1936, nhìn người yêu đi lấy chồng, tuổi là 21 tuổi chứ không phải 19 tuổi. Họ yêu nhau năm 1934, tan vỡ năm 1935, "nhìn" người yêu đi lấy chồng năm 1936.

(2) "Một ông Nghè tây và bà chị ngây ngất nhìn Nàng và nhanh chóng quyết định."

"Bà chị ông Nghè họ Nguyễn biết rõ như vậy, bà cũng là một gia trưởng cả hai họ Nguyễn và họ Phan."

Bà chị ông Nghè họ Nguyễn là bà Nguyễn thị Mão. Bà Mão sinh năm 1903, là một trong những người  Việt Nam đầu tiên thuộc giới "nữ lưu theo đòi tân học". Sau khi đỗ "tú tài Tây" tại Trường nữ trung học Félix Faure, Hà Nội (trường dành riêng cho các nữ sinh Pháp ở Đông Dương, mang tên một vị Tổng thống Pháp), bà Mão vào học Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương khoá 1924-1927, cùng khoá với các ông Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, trước khoá các ông Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Lân và các bà Nguyễn Thị Thục Viên, Nguyễn Thị Yến.

Tốt nghiệp cao đẳng (chắc không dễ hơn tốt nghiệp đại học hiện nay), bà Mão về dạy toán tại Trường nữ trung học Đồng Khánh (nay là Trường Trưng Vương), Hà Nội. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, bà là cô giáo toán bậc trung học đầu tiên và duy nhất trong toàn cõi "Đông Dương thuộc Pháp". Lương của bà rất cao, 120 đồng, khi mà giá một tạ gạo có... 3 đồng! Thế nhưng, hằng tháng bà chỉ giữ lại cho riêng mình 20 đồng, còn 100 đồng thì góp thêm cùng mẹ mua ngân phiếu bưu điện gửi sang Pháp giúp hai người em trai là Nguyễn Văn Huyên và Nguyễn Văn Hưởng đang du học tại đấy. Chính nhờ "tấm lòng vàng" của bà mà Nguyễn Văn Huyên mới có thể tốt nghiệp cử nhân luật khoa, cử nhân văn khoa, rồi bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ văn khoa tại Đại học Sorbonne; và Nguyễn Văn Hưởng mới có thể đỗ cử nhân luật khoa.

Về sau, bà Mão kết duyên với cụ Phan Kế Toại khi cụ "tục huyền" (lấy vợ kế). (Theo Vietbao.vn)

(3) Cả ba Nàng
Ba Nàng đây là ba bà vợ của ông Dương Thiệu Tước.

Bà chính thất là bà Lương Thị Thuần lấy ông năm 1937 và có được 3 gái và 2 trai.

Năm 1954 lúc đất nước chia đôi, ông vào Sài Gòn sinh sống. Tại đây, ông thành hôn với Bà Minh Trang, xướng ngôn viên và ca sĩ của Đài Pháp Á. Ông và Bà Minh Trang có thêm 4 gái và 1 trai. Bà Minh Trang có một cô con gái riêng là ca sĩ Quỳnh Giao.

Ít lâu sau 1975 Bà Minh Trang cùng con cái sang Hoa Kỳ. Ông ở lại Sài Gòn. Bà Lương Thị Thuần, năm 1979 đã qua CHLB Đức đoàn tụ với gia đình người con trai cả của bà.

Đầu thập niên 1980 ông về chung sống với Bà Nguyễn Thị Nga tại quận Bình Thạnh, bà Nga nguyên là một học trò của ông lúc bà theo học đàn guitar tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc. Năm 1983, ông có thêm một con trai với bà Nga.

(http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=697&Itemid=47)

*Hình ảnh truy cật từ nhiều trang khác nhau trên internet. Xin cảm ơn tác giả những tấm hình.

Sóng Việt
12 August, 2010