Chim Việt Cành Nam           [  Trở Về   ]          [ Trang chủ ]            [ Tác giả ]
Thung lũng Những Kỳ Quan

Bài và ảnh Võ Quang Yến

Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người đâu...
Ca dao
 Bản đồ Công viên Quốc gia Mercantour 
Bản đồ Thung lũng Những Kỳ Quan

 
 Baisse du Basto
Pas de Colomb

Miền nam nước Pháp, cách thành phố Nice 80km hướng bắc, dãy núi Mercantour gồm có những ngọn cao giữa 2000 và 3000m, bao quanh nhiều thung lũng mà ba cái chính là Thung những Kỳ quan Vallée des Merveilles nằm giữa hai Thung Fontanalbe và Thung L'Arpette, cả ba chiếm phần lớn Công viên Quốc gia Mercantour. Thung Fontanalbe với những đám cỏ xanh rờn xem như là bãi chăn thả. Thung những Kỳ quan, rộng lớn và hoang vu hơn nhiều Thung lũng Tình yêu mộng mơ của xứ Đà Lạt ta, với những hóc đá lởm chởm hướng lên trời tưởng như cảnh vật ngoài vũ trụ. Ngọn húi Bégo chế ngự hai thung lũng nầy chỉ cao có 2872m nhưng được dân bản xứ truyền tụng là rất linh thiêng. Tục truyền có anh chăn cừu Casterine vì muốn đâm thủng màn bí mật quanh vụ mặt trời mọc lên mỗi sáng sau đỉnh núi mà bị thần linh giết chết. Còn có chuyện mụ phù thủy La Levelli sống với đàn dê cạnh nguồn suối Valmasque hằng năm bắt đám trai chăn cừu biếu bốn con vật để làm lễ hiến sinh trên hồ Carbone. Thấy mụ có khả năng gây bệnh tật, mất mùa, biến hóa dê cừu thành cây thông sau những cơn giông tố hãi hùng mặc dầu sau nầy bị vị chúa tể rừng thiên đuổi chạy, bảy nhà chân tu đã lại lập đàn cầu niệm nhưng không làm sao triệt hạ được đoàn quỷ sứ hộ tống mụ ta. Sau cùng, một vị đạo sĩ nhờ phép thuật cao tay tiêu diệt được chúng, nhưng cuộc chiến quá khốc liệt nên ngay sau đó ông kiệt lực từ trần. Trước khi nhắm mắt, ông vạch lên hóc đá những hình vẻ huyền bí. Người bản địa tin là để cám ơn thần linh. Luôn giữ trong lòng mối tri ơn người đã hi sinh tính mệnh mình cho dân gian, những trai tráng chăn cừu trong vùng tiếp tục tạc khắc những hình vẻ lên đá. Thật ra, chưa ai cam đoan biết chắc cội nguồn hợp lý những hình vẻ đó.
 

 Hồ Basto
Hồ Niré

Người Pháp nghe nói nhiều về các hình vẽ lạ thường kia nhưng ít ai muốn tốn công bỏ sức trèo lên xem vì chẳng có đường sá và phương cách lại gần chỉ là trèo bộ. Gần đây thôi mới thấy nhiều xe hơi có động cơ mạnh có thể vượt qua các đường mòn đầy sỏi đá để mau chóng đưa khách lại thung lũng. Nhưng tiện lợi rút gọn thời gian và tiết kiệm nhân lực làm mất một khía cạnh rất quan trọng là cuộc bước dạo qua các đồi núi hùng vĩ để đạt đến đích. Kết hợp một thái độ thể thao với một kích thước văn hóa thật là một hoạt động vô cùng lành mạnh. Ỷ vào thực tập và kinh nghiệm ở Aussois là nơi đã từng học trèo núi, tôi mạnh dạn ghi tên cùng với một đám thanh niên vào chuyến đi của hội "Những người đi bộ vùng Paris" lên đường viếng Thung các Kỳ quan. Chương trình là lấy tàu từ Paris về Nice, xe hàng từ Nice lên Saint-Martin Vésubie là một làng nằm ngay ở trung tâm công viên Mercantour. Sau đấy là bao bị trên vai, du khách phải trèo đèo vượt núi một tuần lễ theo con đường mòn GR52 nhắm hướng thị xã Tende bên kia phía đông Công viên Mercantour, trên biên thùy Pháp Ý để lấy tàu về lại Nice. Một tuần hết còn dính dáng đến tàu bè, xe cộ, xa lánh điện thoại, tin tức, quên bỏ truyền thanh, truyền hình,...một cách cắt đứt với đời sống hằng ngày, chỉ còn vui với trời, mây, gió, núi. Ngày đi, đêm nghỉ, mục đích chính là tìm xem những hình vẽ trên đá lừng danh khắp thế giới được bàn tán từ nhiều thế kỷ nay.
 

 Lều anh chăn cừu
Đàn cừu trên đồi

Lúc trước, một chuyến đi loại nầy rất mệt nhọc vì du khách phải mang trên lưng mọi thức ăn, mền chiếu, lều chỏng. Ngày nay rải rác trong dãy núi nhiều nhà trú chân cống hiến một bửa ăn tối thanh đạm, một bửa điểm tâm lúc rạng đông, một gói cơm bới để ăn trưa và một cái giường đơn giản trong một phòng ngủ công cộng không đèn, không sưởi. Tuy đã có đặt trước, du khách không nên lại chậm sau 5 giờ chiều, có thể mất chỗ ngủ vì ở núi thì có luật rừng... Sống trong núi cũng như sống ở miền quê lúc trước bên ta, giờ giấc ăn ngủ theo gót mặt trời. Như vậy nghĩa là phải đi ngủ khi mặt trời lặn và tan tản sớm, khoảng 5 giờ sáng, phòng ngủ đã ồn ào thức giấc, mọi người đều sửa soạn ra đi. Phần thưởng của cuộc dậy sớm nầy là được mục kích mặt trời mọc sau các đỉnh núi, có lúc trong sương mù huyền ảo, một cảnh tượng độc đáo khó thấy ở thành phố đồng bằng. Để lại nhiều ấn tượng trong trí óc tôi là hình ảnh những đỉnh núi rực vàng dưới những tia nắng đầu tiên, ẩn hiện dưới đáy hồ, huyền diệu trong trong cảnh thanh bình tĩnh mịch ban mai. Thỉnh thoáng du khách may mắn ngắm được những cặp sơn dương oai vệ thảnh thơi kiếm ăn trên sườn núi cao. Đáng tiếc là như mọi chuyến đi tập thể, phải nối gót bạn đường, không thể dừng lâu thưởng ngoạn, mơ màng trước cảnh đẹp, say đắm trong hiện tượng ít thấy, vả lại đường còn xa...
 

Đầu súc vật có sừng

Ngày nay, đi dạo một vòng quanh vùng, nhất là cạnh đỉnh núi Bégo, sừng sững giữa những tảng đá hematit màu máu khô đỏ xẩm, từng được những băng hà mài nhẵn cách đây 260 triệu năm, không cần phải ra sức tìm tòi cũng thấy hàng ngàn hình khắc vẽ lên đá: khoảng 40.000 hình, trên 3500 tảng đá, rải rác khắp 1400 ha, một nửa trong Thung Fontanable, nửa kia trong Thung những Kỳ quan. Trong Thung Fontanable, chúng hình dung đời sống hằng ngày, nào dụng cụ như móc, hái, khí giới như mâu, kích (riêng dao găm chiếm 18% tổng số các hình vẽ), nào thú vật có sừng từng cặp mắc vào ách cày hay bừa, có khi thêm vào người dẫn, những hình hình học tương tự như hình những mảnh đất rào kín hay những thửa ruộng,...nổi bật trên những phiến đá xen lẫn hoa lá rực màu hoặc trên những thành vách giữa các khe đá rong rêu xanh rờn. Trong Thung những Kỳ quan, những hình khắc có vẻ nghệ thuật hơn, nhưng cũng ít hơn (1% tổng số các hình vẽ) là những hình "dạng người" mà những tên rất gợi ý như vị phù thủy, ông tù trưởng bộ lạc hay đấng Christ, được đặt ra theo hình thức chứ thoạt tiên chẳng có một ý nghĩa sâu xa gì. Có giả thuyết đáng tin cho những hình nầy không phải của một tác giả mà là từ nhiều hình chồng chất tiếp tục nhau trong thời gian. Họ chứng minh một đầu thú có sừng, thêm vào nhiều nét có thể trở thành một đầu người, ví dụ hình vẽ đặt tên vị phù thủy, cũng như nhiều đầu thú xếp đặt trên dưới, thêm vào nhiều đường gạch nối có thể biến chuyển ra thành một người toàn vẹn.

Súc vật mắc với nhau

Từ thế kỷ XVII, nhiều sử gia, tiền sử gia, địa chất học, thực vật học, khảo cổ học, cổ sinh vật học,... nhiều vị linh mục, mục sư, nhà điêu khắc,... đã tiếp tục nhau xem xét, tìm hiểu, kê khai những hình vẽ nầy, hầu mong đưa ra một giải thích thỏa đáng. Ngày nay, dựa lên hình thể, người ta đã xếp chúng thành từng loại. Xem xét nét vẽ thể hiện kỹ thuật chạm khắc, sử dụng những phương pháp hiện đại trong ngành thụ mộc niên đại học, người ta đã thử đánh tuổi các hình vẽ. Chúng có thể được thực hiện từ thời đại đồ đồng đá đến thời đại đồ đồng cổ, nghĩa là giữa 1700 và 2500 trước Công nguyên, lúc chưa ai nói đến đấng Christ ! Về mặt động cơ, nếu có một vài ý tưởng thờ cúng, ma thuật tôn giáo, lấy đỉnh Bégo làm vị trí thiêng liêng, thì cũng có giả thuyết cho các hình vẽ nầy là phương thức biểu hiện một nghệ thuật giản lược, ghi chép những cảnh tượng hằng ngày, khi ở trong hang tối như đã thầy ở nhiều nơi khác, khi ở ngoài nắng, dưới vòm trời cao,... Một trong những người đã bỏ công kê khai, sắp đặt nhiều các hình vẽ trong di sản thế giới nầy từ hơn ba mươi năm nay, là nhà khảo cổ Giáo sư Henri de Lumley ở viện Cổ sinh vật học, người đã bôn ba khắp các di tích tiền sử có tiếng trên thế giới. Một nhà dân tộc thiên văn học tương đối trẻ, độc lập (nghĩa là không thuộc một viện nào), khảo cứu trong ngành khảo cổ - thiên văn học, Tiến sĩ Chantal Jègues Wolkiewiez, đưa ra một giả thuyết táo bạo giải thích các hình vẽ ngày nay chưa được các bạn đồng nghiệp hoàn toàn chấp nhận. Cần chăng nên biết hai ngành khảo cổ học và thiên văn học xa nhau như mặt trăng và mặt trời, hai thiên thể quen thuộc mà bà Jègues thử gây liên quan trong một luận án văn chương và khoa học nhân văn bắt đầu từ 1992 và bảo vệ năm 1997 trên đề tài: Từ những hình vẽ ở Thung lũng những Kỳ quan đến bầu trời ngọn núi Bégo. Khảo sát dân tộc thiên văn học một ngôi đền mặt trăng - mặt trời thời kỳ đồ đá mới.

Người và súc vật

Ý muốn đầu tiên của bà Jèques là tìm hiệu nguồn gốc hình vẽ trong các động, nhưng cuộc khảo cứu lại bắt đầu ở Thung những Kỳ quan với những hình vẽ ngoài trời. Hôm đầu tiên lại đây, bà chú ý ngay đến hình vẽ những lưỡi dao găm tượng trưng cho mặt trời, đặc biệt trên tảng đá đặt tên Bàn thờ: chúng đều chọc mũi về một hướng. Đem đo độ núi chênh các tảng đá có hình vẽ thì bà khám phá ra các dao găm kia đều hướng về những điểm mặt trời mọc hay lặn những ngày hạ chí hay thu phân. Trong một hệ thống các tảng đá có nhiều lỗ thông với bên ngoài, bà nhận xét cứ đến thu phân hay xuân phân thì ánh nắng mặt trời thông qua lỗ chiếu sáng một điểm xác định, điểm giao lưu giữa hai tinh tú. Xem xét những hình vòng thường dùng để hình dung mặt trăng, vị trí những ngày điểm chí hay điểm phân được xác định, sáu tuần trăng thể hiện qua những đường cong có sáu đỉnh. Trên nhiều tảng đá, những hình vẽ hình dung những chòm sao hoàng đạo. Khảo cứu một tảng đá trên ấy có hình vẽ đặt tên Vị chúa tể có tay hình chữ chi, bà nhận thấy những hình vẽ hình dung những thiên thể vào một lúc chỉ định, đem so sánh với phương vị những hình vẽ khác mà bà bỏ công đo lường, bà khám phá ra được một nhật thực ngày 10 tháng 10 năm 1718 trước Công nguyên vào lúc mặt trời mọc, rất quan trọng vì là ngày đầu tiên mùa thu, rất dễ tính toán vào lúc thay đổi tiết trời. Chỗ khắc hình vẽ lắm lúc được chọn lựa rất kỹ càng. Ví dụ tảng đá gọi là Bàn thờ đã thấy, trên ấy có hình vẽ đặt tên Vị tù trưởng bộ lạc, chiếm một vị trí gọi là vị tự so với địa hình ngọn núi Bégo để khi mặt trời và mặt trăng mọc hay lặn, ánh nắng chiếu rõ những hình vẽ. Nói chung, chỗ nào có nhiều hình vẽ là chỗ ấy có điểm quan sát quan trọng, để lại cho hậu thế những cuốn sổ tay tràn đầy ghi chép thiên văn quí báu nếu biết tìm cách đọc hiểu. Có nhà thiên văn học đã nhận ra những hình vẽ các chòm sao, có khi liên quan đến những thay đổi thời tiết...Những đài thiên văn tiền sử giản dị nầy, tổ tiên những đài hiện đại ngày nay, đã sử dụng những vật liệu mộc mạc sẵn có tại chỗ và vận dụng kỹ thuật tuy đơn sơ mà biết bao công hiệu thời ấy, những điều kiện cần thiết cho sự sống còn của các bộ lạc. Địa điểm chọn lựa cũng không phải tình cờ : ở cao độ, dễ nhìn xa, nhìn rõ ; có núi có thung, dễ xác định tứ phương ; có địa hình gồ ghề dễ thực hiện những nhiều điểm kiểm tra cùng lúc ; gần biển dễ dàng đi lại, giao lưu kiến thức,...dù những tác giả các hình vẽ kia chỉ có thể là những chàng chăn cừu mộc mạc tháng năm quanh quẩn trong đồi núi nhưng không thiếu đầu óc quan sát, khả năng lý luận.

 Đấng Christ
Vị phù thủy

Ngang đây cần mở một vòng ngoặc. Năm 1991, trước khi bà Jègues khởi công luận án, bà Emilia Masson, chuyên gia về đạo giáo Ấn - Âu và sử ký dân tộc Hittites, nhân viên Collège de France ở Paris, trong đề tài khảo cứu về những hình vẻ Công viên Mercantour, đưa ra một giả thuyết động trời trình bày ở viện Hàn lâm Khoa học : Thung Fontanalbe và Thung các Kỳ quan là hai bộ phận một tổ chức nhị nguyên, thung thứ nhất thể hiện thế gian, thung thứ nhì thế giới bên kia. Thiêng liêng chế ngự quần thể là đỉnh hình kim tự tháp Cime des Lacs sừng sững giữa hai thung và trên chóp đỉnh hiện ra vòng quanh một mặt người. Để thêm phần thuyết phục, bà cho biết bên trong đỉnh núi có một hang động mang nhiều hình vẽ. Tin như sét đánh: đến nay trong dân gian cũng như trong giới những nhà khảo cứu, không ai thấy mặt người nầy. Một ông cụ đã nói với tôi: tôi sống suốt đời ở cạnh đây mà không nào nghe nói đến, bây giờ một bà parisienne đột xuất đưa tin ấy. Giới khoa học cũng xôn xao không ít. Ủy ban bảo tồn di tích Aix-en-Provence cử hai nhà tiền sử học Roger Jousseau và Jean Clottes thưc hiện một cuộc giám định mà ai cũng đoán trước kết quả. Đằng khác, hai nhà địa chất học quen thuộc với vùng núi nầy, Maurice Taïeb và Frédéric Werth, theo yêu cầu của Yves Coppens, nhân viên viện Hàn lâm Khoa học, giáo sư ở Collège de France, cũng lại khảo sát và đưa kết luận chỉ là một thành hệ thiên nhiên.

Mảnh nương rào kín

Những dữ liệu đầy sức thuyết phục gom góp ở Thung những Kỳ quan đã tăng cường ý chí của bà Jègues là những người tiền sử, luôn biết bảo tồn liên hệ vĩnh viễn trời - đất, nhờ biết xem xét bầu trời và định hướng những công trình, đã vạch rõ vai trò và vị trí ánh sáng những thiên thể trong các điện đài dựng lên như những cuốn lịch để tổ chức cuộc sống trong năm : lúc nào nắng, ngày nào mưa, mùa nào tuyết phủ che kín núi đồi, thời gian nào làm gì, chẳng hạn lúc nào gieo hạt, lúc nào chuyển nuôi thú vật lên non xuống núi, đồng thời xác định những ngày lễ bái cầu mong bảo vệ con người cũng như mùa màng. Những khái niệm căn bản cho nền khoa học nầy dần dần bị quên bỏ, nhất là khi chữ viết ra đời, cứ muốn giải thích những tượng trưng mà quên các ý nghĩa lúc ban đầu. Sau đó bà trở lại ý chí ban đầu, tiếp tục tìm hiểu phương hướng các động trong vùng, đồng thời nguồn gốc những hình vẽ trong các động mà nổi tiếng nhất là động Lascaux, ngày nay đáng tiếc đã bị đóng cửa để tránh khỏi bị hư. Tuy bà Jègues hết sức tin tưởng ở giả thuyết của mình, ai dám khoe khoang thông hiểu đầu óc con người đã tạc chạm các hình vẻ nầy lên đá mấy ngàn năm trước đây? Để góp thêm ý, ông Jerôme Magail ở Viện Bảo tàng Nhân loại tiền sử học Monaco, sau mười ba năm khảo cứu, khám phá ra bóng đỉnh ngọn Bégo chiếu xuống chân núi trong thời gian từ ngày 21 tháng sáu đến ngày 14 tháng chín, tức là từ hạ chí đến trung phân, đúng vào 36 hình vẽ. Thời gian nầy là lúc không có tuyết và dân miền núi đem súc vật lên nuôi ở đây. Câu hỏi là tại sao hình vẽ khi là hình vẽ mủi dao, khi thì hình vẽ đầu bò? Dù sao, khám phá nầy góp phần chứng minh người xưa đã có một kiến thức rõ rệt về thiên văn.

 
 
Tảng đá Bàn thờ
(Bàn thờ hiện thấy tại chỗ là một bản sao.
Nguyên bản được cất vào viện bảo tàng.)
 Vị tù trưỏng bộ lạc
Vị chúa tể có tay hình chữ chi

Các nghệ sĩ thời xa xưa có dè đâu đã gây biết bao khuấy động trong đầu óc kẻ trí thức hậu thế! Người đi dạo Thung những Kỳ quan mãi suy nghĩ cũng chỉ biết phân vân trước các tác phẩm của người tiền sử. Đến một lúc, có lẽ không cần tìm hiểu lý do đã thúc đẩy những nghệ sĩ đã bỏ công tạc khắc, mà chỉ nên còn biết sống những giờ phút hiện tại, tận hưởng cảnh đẹp hữu tình của núi non hùng vĩ cũng như thưởng thức những nét vẻ hồn nhiên của các hình chạm thô sơ, để mặc tâm hồn thư thái ngược dòng thời gian trở lại quá khứ xa xăm, lúc con người đang đang còn biết sung sướng với thiên nhiên tạo hóa.

Tiến lên đỉnh Bégo

Phụ lục: đá khắc ở Mường Hoa

Những hình vẽ tạc lên đá ở Bắc bộ bên ta cũng đặt vấn đề tương tự. Trong thung lũng Mường Hoa thuộc các xã Lao Chải, Hầu Thào, Tả Van, Sử Pán.. (huyện Sa Pa) có một bãi đá rộng 8km2 với hơn 159 tảng đá granit có dầu chạm khắc. Theo ngưòi Mông quanh hai xã Hầu Thảo và Tả Vạn, nguồn gốc bãi đá được giải thích trong một truyền thuyết về mối tình bất hạnh của một đôi trai gái không cùng bộ tộc, vì chiến tranh chống nhau, phải chạy trốn đến nguồn suối Kim Hoa và hóa đá ở đấy. Ngày nay tại chỗ có ba tảng đá mang tên Hòn Bố lớn nhất (6x15m), Hòn Mẹ, Hòn Con. Trên mình tất cả ba đều có hình vẻ kỳ quặc, khó hiểu. Nhiều giả thuyết cho đó là những bức tranh, những bản đồ khu vực của người Mông xưa hay của những chiến trận một thời trước. Trong những bức tranh có thể tưởng tượng nhận ra núi non, măt trời, sông suối, ruộng bậc thang. Có người nhận thức ngay cả những hình người với những tư thế, dáng điệu khác nhau (11 kiểu), những họa tiết giống như cổ tự! Những người lớn tuổi còn tin hai Hòn Bố và Hòn Mẹ không ngừng tìm lại nhau... Bãi đá được nhà khoa học người Pháp Jean Bartherlier phát hiện năm 1924. Năm sau, Viện Viễn đông Bác Cổ Pháp (EFEO) tại Hà Nội đã cử nhà nghiên cứu Victor Goloubew và một số cộng sự lên Sa Pa tiến hành cuộc khảo cứu quy mô lớn. Trong một Hội nghị khoa học về những phát hiện khảo cổ do Viện Khảo cổ tổ chức cuối tháng chín năm 2000, giáo sư Phan Trường Thị và các đồng nghiệp công bố đã phát hiện tại huyện Phong Thổ (Lai Châu), những vết khắc có nhiều nét tương đồng với hình khắc tại bãi đá Sa Pa, cũng trên mặt những tảng đá granit, loại vạch khắc hình tròn, hình cung song song, có khi đối xứng, có khi bắt chéo nhau,... Những hình khắc đẹp nhất tập trung ở Bản Pho. Từ 2005, trở thành di tích quốc gia, bãi đá được ghi vào một chương trình khảo cứu liên hợp EFEO và Sở văn hóa tỉnh. Do Philippe Le Failler và Trần Hữu Sơn điều khiển, những đội lẫn lộn cán bộ trẻ địa phương, chuyên gia từ Hà Nội lên, cùng nhau thiết lập một bản thống kê cặn kẽ có hệ thống: quy định, khuôn rập, tư liệu,... để đi đến một bản kê toàn bộ những hình thể. Năm 2012, EFEO Việt Nam đã cho xuất bản một cuốn catalô, thêm vào một bản hệ thống loại hình của Philippe Le Failler nêu cao ưu thế những kiểu trổ nhắm mục đích họa đồ. Tuy cuôc khảo cứu chưa xác định được chính xác niên đại cùng tác giả của những vết khắc công phu nầy, công tác đã rất cần thiết để khai khẩn đồng thời bảo vệ một di thể quý giá nằm trong vùng du lịch đang bị những kế hoạch làm nhà máy điện đe dọa ngoài những tai biến thiên nhiên và sự xói mòn của thời gian.

 Thung lũng Mương Hoa
 Hòn Bố

Thung lũng Những Kỳ Quan - Thung lũng Mường Hoa: một vạn cây số chia cách, hai địa điểm, một vấn đề!

Thành Xô mùa hè 2014
Ảnh chụp năm 1992
Ảnh Mường Hoa và Hòn Bố trích ở baodatviet.vn
Tham khảo

- Daniel Riba, La Vallée des Merveilles, Guide du visiteur, Editions Serre, Nice 1983

- Yvonne Rebeyrol, La nature, sculpteur de la Vallée des Merveilles, Le Monde 08.07.1992

- Emilia Masson, La Vallée des Merveilles, Bulletin MGEN 11-12.1992

- Du rififi dans la Vallée des Merveilles, Sciences et Avenir 10.1996

- Un cadran solaire vieux de 4000 ans au mont Bégo, Sciences et Avenir 04.2007; montbego.com

- Colette Mainguy, La Vallée des Merveilles, Le Nouvel Observateur 09.06.2011

- Chantal Jègues Wolkiewiez, La Vallée des Merveilles, La Roche de l'Autel, archeociel.com

- Tạ Hòa Phương, Những bãi đá khắc bí ẩn ở Sa Pa, baodatviet.vn06.06.2009

- Nam Trung, Truyền thuyết tình yêu bên bãi đá cổ Sa Pa, baodatviet.vn 10.03.2010

- Philippe Le Failler, Pétroglyphes et histoire des régions montagneuses du nord du Vietnam, Objectif Vietnam, Edition Paris Musées 2014