Trở Về   ]       [  Tác giả   ]

Laiquangnam giới thiệu
Hạ Tri Chương

(賀知章)

1Hạ Tri Chương là người Quảng ?

Có  một ông thi sĩ già tên là Chương, tên đầy đủ của ông là Hạ Tri Chương. Ông nói giọng Quảng khá nặng dù trong tiếng nói có đôi chút lơ lớ. Ông ra đi đã rất lâu, không ai biết vì lý do gì, nay cuối đời tìm về thăm quê nhà. Có ba bài thơ tường thuật chuyến về này, đời sau nay còn lưu giữ. Ông còn nhớ như in cái lần ngoái nhìn quê hương lần cuối trên bước đường "?" ; bây giờ "?" là "nửa muốn nhớ, nửa muốn quên" ...

Tiễn người hoa lá vấn vương,
Đồng hoa nội cỏ ủ hương... nhớ người!
Bài thứ nhất
Trở  lại quê xưa ...

   Nội dung là bối cảnh động lòng của người ly khách (ông già Chương) trên bước đường trở lại quê nhà,  xứ Quảng thân thương của mình, nổi buồn xa quê đã lâu của người ly khách tự kể ở câu (1), và cuối cùng là tâm trạng của ông thay đổi theo từng phút giây đối mặt với "người tưởng chừng đã quên". Bài này có lẽ do người dẫn truyện tường thuật, đang là người đồng hương thuộc thế hệ sau ông.
 

Hồi hương ngẫu thư (kỳ 1)

1.1 Nguyên tác

回鄉偶書其一

少小離家老大迴, 
鄉音無改鬢毛摧。 
兒童相見不相識, 
笑問客從何處來。 

1.2 Phiên âm
Hồi hương ngẫu thư (kỳ 1)

Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi
Hương âm vô  cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiếu vấn :" khách tòng hà xứ lai".

1.3  Chú  vài từ và tạm dịch nghĩa

(nntc) ,viết tắt của cụm "ngữ nghĩa như trong chữ ..."
ngẫu (nntc) ngẫu hứng; 
thư là ghi chép; (nntc) thư ký ,thư trai 
cải [ ] là đổi, (nntc) cải thiện,cải cách ;
mấn là tóc; "Tiếng Việt không  dùng", 
tồi [ ] là rụng sạch, (nntc) tồi tàn; 
tòng [] là từ đâu ra;  (nntc) tòng chinh ,tòng phạm 
[] là sao, vậy. (nntc) hà tất 

tạm dịch tiêu đề "Ghi chép ngẫu hứng trên đường về làng xưa".

1.4  Dich thơ quốc âm 

Hồi hương ngẫu thư

Tạm dịch :

"ghi chép ngẫu hứng khi tìm về làng xưa".
1. Đi khá trẻ, về khá già !
2. Giọng quê nào đổi, bạc đà hơn râm.
3. Trẻ con bu lại hà rầm
4. Rằng:" Ông mô đến, hay lầm chổ ni" ?
5. Hỉ .?
6. Hì! hì!.... Hì! Hì! Hì!
lạiquảngnam dịch
Theo người Đông phương, ai gắp được niềm hạnh phúc là những người "hạnh phúc". Hạnh phúc đâu xa, "nó" đôi khi hiện ra trước mặt mình trong một phút giây bất chợt, khi ta trải lòng có lẽ dễ gặp hơn. Găm phiền não càng khó gặp lắm. Xin hãy xả lòng để cơ duyên có cửa "chui vào " ..,
1. Nắng hạn gặp mưa rào
2. Đất khách gặp người quen
3. Phòng hoa  đêm hợp cẩn
4. Bảng vàng được đề  danh
Và đây cũng là niềm hạnh phúc khác cũng theo quan niệm Phương Đông
1. Tha hương gặp  đồng hương,
2. Thành đạt về cố hương .
3. Tuổi già không cô độc .
  Ông già Chương đang thực hiện hai niềm hạnh phúc cuối : "Thành đạt về cố hương, & tuổi già không sống cô độc". Người ta nói về già ra con nít, lòng mình mà được hồn nhiên phá chấp như con trẻ mới là chân hạnh phúc, cái làm cho mình mau xuống sắc chính là sự dằn vặt về tinh thần do bởi ngoại cảnh hay bởi chính ta.
Ý thơ từng câu :

Câu  1.  Đi khá trẻ, về khá già !
Nếu đời người là khỏang cách A_B - 100 năm,  lời của người ly khách kể với ta thành A_A'___B'_B , khá trẻ A' cận dưới A, khá già B' cận trên B; quảng cách A'__B' gợi cho ta nghĩ đến một khoảng thời gian xa quê lâu quá. Người dịch không dùng chữ quá già, bởi quá già thì sinh lẩm cẩm, đi đứng chậm lụt, phản ứng chậm chạp lụt, có khi lại bị nặng tai đâm ra mất vui; câu chuyện gồm ba hồi theo ông già gân họ Hạ. Ông già Chương sống rất thọ, đến 85 tuổi tây, hay 86 tuổi ta, lúc ấy ông mới chịu từ giã cuộc chơi.

Câu  2. Giọng quê nào đổi,bạc  đà hơn râm,
Sau khi thẩm định, người kể chuyện quả quyết : "ông già Chương rất xịn. Ông đã giữ tốt tiếng nói của mình, một giọng Quảng khá nặng đặc trưng không sao lầm lẫn được. Đất Quảng có câu " Chưởi cha không bằng pha tiếng ". Ông ngon!. Chính vì vậy mà người dẫn truyê?n phán ra câu chắc nịch, "nào",  Giọng quê nào đổi ! (nghĩa là y chang 100%, xịn lắm đó! ).

Câu  3. Trẻ  con bu lại hà rầm
Người kể chuyện (có thể là lời tự hào của chính ông pha vói chút hài lòng), giọng người tường thuật cũng đặc sệt tiếng Quảng,"trẻ con bu lại hà rầm" , " hà rầm "(là đông đúc, đông dầy, đông đen , ô là là... nhiều ơi là nhiều!), bu ( vây quanh, áp sát). Theo mỗi bước chân của người ly khách đâu đâu cũng là đồng hương.

Câu 4.  Rằng: " Ông mô đến, hay lầm chổ ni" ?
Đám con nít chưa biết giữ ý tứ, gọi ly khách là Ông, thay vì gọi bằng "Cụ" như người  đàng ngoài, đám trẻ cùng quê, lại là nhà quê nên "Ăn cục nói hòn" , "mô đến ?",    "chỗ ni" trong  từ Quảng dùng  mô là  đâu, nơi đâu; ni là chỗ này.

Câu  5. Hỉ  .? & Câu 6. Hì! hì!.... Hì! Hì! Hì!

"Đi hỏi già,về nhà hỏi trẻ", Hỉ ? [ chú từ Quảng : Hỉ là làm sao, hỉ ? hàm ý làm ơn lặp lại dùm đi ]. Có lẽ ly khách hơi nặng tai, đã 84 rồi còn gì!.  Giọng ly khách đã khó nghe?. Không biết giữa ông cháu họ đã đối đáp những gì, họ đã nói "cái chi chi" mà thấy họ cười rũ rượi. Hì! hì!.... Hì! Hì! Hì!. Có lẽ lũ trẻ tranh nhau nói, tranh nhau làm tài lanh tài khôn , con nít mà. Thấy vui là xáp lại. Sao bọn trẻ quê Quảng mình dễ thương đến chi lạ! hồn nhiên ơi  hồn nhiên !..

- Hì! hì!.... !" của ai ? và Hì! Hì! Hì! này của ai?. Tiếng cười "Hì! Hì! Hì! " của ông cháu họ vang lên sặc trong không gian nồng mùi cỏ dại của làng mạc xứ Quảng, hòa lẫn trong tiếng xào xạc của lũy tre xanh. Họ cùng ngồi bệt xuống thảm cỏ , đúng là

Tiễn người hoa lá  vấn vương,
Đồng hoa nội cỏ  ủ hương... nhớ người!

Quá lâu đến tận bây giờ mùi hương quê nhà mới chịu nhả ra để sởi ấm lòng người ly khách.

Phần  II - Bài thứ hai
Xin kể tiếp cuộc hành trình

   Sau khi gặp đám trẻ nói trên, vài hôm sau ông đi tìm gặp ngay bè bạn lớp trước. Lớp bạn học, lớp bạn thời còn đổ nước bắt dế, thời còn xúc cá ngoài ao hay bẻ trộm mía, nhổ trộm khoai lang trên đường đi học về, tụi bạn cắc cớ hay kêu tên cha mình mỗi khi gặp mặt mình đâu đó mà mình không hề có chút giận hờn . Mình cũng kêu tên cha nó lại, mình cũng đâu có vừa gì ! Tâm tình trăm mối. Mới đó mà mấy mươi năm ...

Hồi hương ngẫu thư kỳ 2

2.1 Nguyên tác

回鄉偶書其二 
離別家鄉歲月多, 
近來人事少消磨。 
惟有門前鏡湖水, 
春風不改舊時波。 
2.2 Phiên âm :
Hồi hương ngẫu thư (kỳ 2)

Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa,
Cận lai nhân sự bán tiêu ma.
Duy hữu môn tiền Kính Hồ thuỷ,
Xuân phong bất cải cựu thì ba.

2.3 Chú  vài từ và tạm dịch nghĩa

tuế  nghĩa là năm; (nntc) tuế nguyệt,vạn vạn tuế 
cận lai là gần đây; 
Kính Hồ  địa danh mà ngày xưa ông đã tham gia cất công chỉ huy đào; hồ Kính nay là hồ nhân tạo được dùng để tích nước tưới ruộng vườn; 
cải là thay đổi, (nntc) cải thiện; 
ba là sóng, (nntc) phong ba bão táp.
 

2.4 Dich thơ quốc âm 

Ly hương tính đã nhiều năm,
Bạn bè chừ điểm còn dăm ba người .
Ngoài song Hồ Kính mười mươi,
Gió xuân y thuở, sóng chừ y xưa !.
lạiquảngnam dịch
Thì ra,....".lần ngón tay ai còn ai mất" sóng vẫn lăn lăn tăn trên mặt Kính hồ trước  nhà. Cảnh  vẫn "y sì" như xưa, từ ngọn gió đến con sóng lăn tăn ."Tụi bay đâu rồi! Tau nì! ". Im lặng . Âm thầm có một giọt lệ lăn dài trên gò má hóp .

      Tôi cố sống để xem Bạn Hiền có cầm được nước mắt khi về thăm lại quê nhà. Tôi e bạn sẽ 1 trật "dụt" [là từ "vuột" trong Nam] khi lặng lẽ gắp cộng rau húng Trà Quế, tay thì cầm mãi miếng bánh tráng nướng bẻ kêu dòn rụm mà mắt cứ để tận đâu đâu, trước mặt bạn một tô mì Quảng vàng rườm, trái ớt nửa xanh nửa tím, lạnh ngắt, nhạt mờ sau làn nước mắt.

Phần  III - Bài thứ ba
Xin mời Khách thơ tiếp tục bám theo bước chân ông đến tận cuối cuộc hành trình.

      Ông già Chương sau khi về quê nhà, lớp bạn cũ hoặc đã từ giả cuộc chơi vì tuổi tác hoặc đã ly tán vì thời cuộc quá nửa. Theo dòng đời, Ông cũng có nhu cầu tâm tình, nhu cầu kết bạn chơi đi qua đi lại . Ông khéo quá và hồn nhiên quá.

3.1 Nguyên tác

題袁氏別業 

主人不相識, 
偶坐為林泉。 
莫謾愁沽酒, 
囊中自有錢。 

3.2 Phiên  âm

Đề Viên thị biệt nghiệp

Chủ nhân bất tương thức
Ngẫu tọa vị  lâm tuyền
Mạc mạn sầu cô  tửu
Nang trung tự hữu tiền1

3.3 Chú  vài từ và tạm dịch nghĩa

(nntc) viết tắt của cụm " như ngữ nghĩa trong chữ "
Đề là ghi, là viết, (nntc) đề thơ ; 
thị [] là họ; (nntc) Nguyễn thị X, 
Viên là họ của người trong cuộc ; 
biệt, (nntc) đặc biệt; 
nghiệp,(nntc) cơ nghiệp; 
mạn  [] là lừa dối (lời nói dối) [ mạn có  bộ ngôn ()] (nntc) ? ; 
mạc là đừng; Mạc mạn có lẽ  "Tiếng Việt không dùng" 
nang là túi, (nntc) cẩm nang. 

Câu 3, "Mạc mạn sầu cô tửu"  hàm ý "đừng dối lòng buồn vì uống rượu chỉ có một mình mình", hàm ý rằng đừng nói buồn vì thiếu bạn rượu, hay đang vì lý do gì khác? cho nên ông sè sẹ đề nghị góp "?"….hóm hỉnh! 

Câu 4, 1Nang trung tự hữu tiền, sẵn tiền trong túi; lấy ý từ nhà thơ trong thời Lục triều, bài thơ có viết với ý “một bụng đầy văn chương không bằng một túi sẳn tiền.”. Chí lý!. Có tiền nặng túi lòng người thường rộng mở, họ vào cuộc chơi, mạnh miệng kêu loại rượu ngon nhất mà lòng chẳng hề so đo, họ không hề nghĩ trong đầu rằng ai sẽ trả "độ"  này. Càng rất đúng với người ly khách trong cuộc; thì ra "Mạc mạn sầu cô tửu" là vậy sao?
 

3.4 Dich thơ  quốc âm

Đề Viên thị biệt nghiệp, xin tạm dịch nghĩa  "Đề thơ riêng tặng nhà họ Viên"

Tình ta với 2chú chửa thâm,
Ngẫu nhiên cùng ngắm suối lâm râm tình .
Buồn chi! , _  uống rượu một mình,
Sẳn tiền trong túi cho mình góp vui !.
lạiquảngnam dịch
   2Chú, đừng quên rằng ông già Chương đã hơn 80 (thọ 85 tuổi tây), ông già trên thất thập cổ lai hi hơn một giáp. Với ai ông cũng có thể gọi bằng "chú", từ rất thân , "chú em", mà chẳng sợ mích lòng. Đó cũng là cách tiếp cận thân mật với lớp trẻ của người xưa.

+o0o+

Sự thật :

  1Hạ Tri Chương là người Quảng Đông là bạn vong niên với Lý Bạch.

      Bài  Hồi hương ngẫu thư kì I được đem vào dạy chương trình lớp 7 bậc PTCS hiện nay nhằm quảng bá dòng thơ cổ văn Trung Quốc. Lớp 7 bây giờ, là lớp đệ lục ngày xưa của học sinh miền Nam,  cùng với bài Tỉnh dạ tư (tứ ?) của Lý Bạch. Chương trình phổ thông hiện nay được làm quen với 15 bài thơ Đường tại hai cấp lớp 7 và 10. Việt văn độc bản của cụ Trần trọng San viết cho lớp tú tài I (lớp 11bây giờ ) của học sinh miền Nam trước 75 chỉ giới thiệu có mỗi một bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu, thế mới biết văn chương lớp trẻ bây giờ "thâm lắm " .  Ngay như dân ban C, dân văn chương miền Nam ngày xưa cũng không được đào luyện thâm như vậy. Bản dịch Việt văn Hồi hương ngẫu thư ký I dành cho học sinh lớp 7 là bản dịch dưới đây do Phạm sĩ Vĩ dịch nguồn từ VVH Hà Nội.

Bản dịch số 01
(bản dịch cho Học sinh phổ thông học hiện nay hoặc dùng bản dịch này )

Ngẫu nhiên viết nhân lúc buổi về làng
Khi đi trẻ,lúc về già
Giọng quê vẫn thế tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng : khách ở chổ nào lại chơi .
Phạm sĩ  Vĩ dịch ,
" Thơ Đường" của viện Văn học Hà nội  do Nam Trân chủ biên.
-o0o0-

Các bản dịch của các tác giả thời danh khác

Bản dịch số 02

Bài thơ  khi về làng
Hồi hương, nhớ thuở trẻ ra đi
Tóc rụng nghe còn đúng tiếng quê
Gặp mặt trẻ con cười chẳng biết
Hỏi ta mới ở xứ nào về .
Bùi Khánh Đản dịch,
"Đường thi trich dịch",nhà xuất bản Văn Học, 2006
Bùi Khánh Đản là người dịch thơ  Đường một cách chuyên nghiệp và nổi tiếng ở miền Nam trước 75, trong khi cụ Trần Trọng San thì dịch nhằm phục vụ công tác dạy chữ Hán tại ĐHVK ,ĐHSP  SG.

Bản dịch số 03

Về quê tự dưng viết kỳ 1

Bé  đi, già mới về nhà,
Tiếng quê vẫn thế, tóc đà rụng thưa.
Trẻ con trong thấy hững hờ,
Cười ồ, hỏi khách lại từ phương nao.

Trần Trọng Kim ,
Cụ  Trần Trọng Kim dịch thơ đường rất sớm, hầu như cụ dịch gần trọn vẹn bản Đường thi tam bách thủ .

Tiểu sử Hạ Tri Chương

Hạ  Tri Chương 賀知章 (659-744), tự Quý Chân người Quảng Đông,có sách lại  chép ông người Chiết giang. Ông đỗ tiến sĩ nãm 698. Kiến vãn rất rộng, làm quan đến chức Thái Tử Tân Khách Bí Thư Giám. Khi từ quan về nhà, ông sống đời đạo sĩ, lấy tự hiệu  là Tứ Sinh Cuồng Khách.

Ngoài tài thơ văn, tiểu thuyết, còn có tài viết chữ thảo, chữ lệ rất đẹp. Tính phóng khoáng, thích uống rượu. Ông là bạn vong niên với Lý Bạch, lớn hơn Lý Bạch 40 tuổi, Ông chết 86 tuổi. Nhóm thi ca của ông gồm bốn người, gọi là nhóm " Ngô Trung Tứ Sĩ ", gồm  1Hạ Tri Chương,Truơng Húc,Trương nhược Hư,& Bao Dung ". Trong nhóm ông có Trương nhược Hư với bài "Xuân giang hoa nguyệt dạ", là một trong hai bài thơ Đường, rất được người Nhật  yêu thích, bài kia là bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị. 

Phần  đọc thêm
01 .   Bản tiếng Anh,laiquangnam sao lục dành cho thế hệ con, cháu 1,5 (nóivà hiểu tiếng Anh giỏi hơn tiếng Việt ) của Việt Nam

Bản dịch sang Anh ngữ, của Witter Bynner được dùng tại vài  đại học Hoa kỳ

1. I left home young.I return old;
2. Speaking as then, but with hair grown thin;
3. And my children, meeting me, do not know me.T
4. hey smile and say: "Stranger, where do you come from?"
02 . Xem người Tàu bình thơ  của tiền nhân họ từ nguyên tác
(trích từ nguồn http://honvietquochoc.com.vn )

   Đường thi đại từ điển - Giang Tô Cổ tịch xuất bản xã, 1990, tr.712 mục Hồi hương ngẫu thư, viết: "Hai bài thơ này diệu ở chỗ văn chương khinh khoái, tả người xa quê lâu ngày về rất là chân thành, tha thiết, không cần vẽ vời, tình thú dào dạt. Nhân sự tiêu mòn, Kính hồ như cũ, cảm khái vô hạn, gởi cả vào thơ, tình sâu vị đượm, thực là tác phẩm thượng thừa trong thơ thất tuyệt đời Đường. Toàn bài 1 và 2 câu cuối bài 2 đều được xưa nay truyền tụng là "giai cú".[câu đẹp ]

   Đường đại danh gia thi tuyển - Hải Nam xuất bản xã, 1994, tr.67, viết "lâu năm làm khách xa quê, cảm khái tuổi già về lại quê nhà, thấm thía cái bi hoan của nhân sinh, chân thành, tha thiết động lòng người".

   Tân dịch Đường thi tam bách thủ, Tam Dân thư điếm. Đài Bắc 2005, tr.468, viết: "Tùy hứng viết ra ý tứ thơ do việc tác giả xa quê lâu năm, già về quê, kẻ sinh sau không nhận ra mình, lại gọi mình là khách đến làng, cho nên trong thơ cảm khái tự thương tuổi già..., Chỗ hay của bài thơ là bình dị, sáng rõ, dễ cảm, trong lòng ẩn chứa nỗi đau, nghìn năm sau còn làm động lòng người"

   Trung Hoa thiên cổ danh thiên tân biên, Thượng Hải, Phúc Đán đại học xuất bản xã, 2000, tr.37, viết:

    "Bài thơ ngữ ngôn phác thực, tự thuật sinh động, phong phú  ý vị nhân tình... Nói về kỷ xảo, tuy không luyện chữ khắc ý, cũng có sự sắp xếp: thiếu tiểulão đại, lyhồi, hương âm không đổitóc mai đã rụng là 3 tổ hợp đối tỉ (...) khiến người ta có cái cảm sâu sắc về biển dâu (thương tang). Hai câu sau của bài lấy từ trong sinh hoạt, là một bức tranh tế vi, từ trong sự vật bình thường hóa thành tuyệt xướng"

   Cổ  thi hải (tập thượng). Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1992, tr. 467-468, viết: Bài thơ "thực bao hàm cả ngàn câu vạn lời về cái cảm xúc biển dâu... Trẻ con cười hỏi" đã làm dậy lên trong lòng nhà thơ bao nhiêu ý vị về quê..." Thủ pháp ngụ bi vu tiếu, ngụ thực vu hư (gửi cái bi trong cái cười, gửi cái thực trong cái ) sức mạnh nghệ thuật thâm trầm, trăm ngàn năm nay không thời nào không làm độc giả động lòng. Hai bài này ý cảnh như đạmnồng".

    Đấy là mới để mắt lướt qua một vài tư liệu của Trung Hoa về bài thơ trên .

03. Lời cuối của người viết bài .

      Khách thơ đọc tiếng Việt qua dòng lục bát có lẽ  thấm hơn so với nguyên tác, liệu có quá chăng ?, đọc lời bình của chính người Tàu, Khách thơ cảm nhận được những gì?. Riêng laiquangnam chỉ mong cho đồng hương mình, nay đang là người Quảng Nam đóng vai ly khách đêm nay tại xứ người,  tìm được chút hơi thở từ quê hương.

Rằng laiquangnam và bè bạn luôn thương yêu và nghĩ đến các bạn.

Ngàn dặm quê nhà.

Thân ái

-o0o0-

Ghi bên lề của người viết bài 

Bài hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương là một bài xuất sắc trong dòng thơ  tứ tuyệt của Đường thi, ngôn ngữ tưởng chừng như mộc mạc mà cay đắng.
Ta thử đọc lại hai câu :
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức 
Tiếu vấn : "khách tòng hà xứ lai". 

bất tương thức  ! chẳng hiểu gì nhau, ngậm ngùi!  và Tiếu vấn, vừa hỏi vừa cười, phải nghĩ rằng các cháu nhi đồng đang vừa cười vừa hỏi, nên ta thấy lão ông không chấp nhất, lớp người cỡ thiếu niên trở lên “tiếu vấn” có mà ăn đòn. Hóm hỉnh! 
Tuy nhiên, khi đọc lại nguyên tác, ta thử dùng các sách do người Việt mình dịch giới thiệu bài này ,ta gặp sự tam sao thất bổn tại câu hai 
鄉音無 改 鬢毛 [?]
Hương âm vô cải mấn mao [?] 

Chuyện gì vậy ? 
鄉音無 改 鬢毛 [?]
Hương âm vô  cải, mấn mao [?] 

a)Trường hợp 1 : [?] là chữ tồi [ ] là bẻ gãy, dọn sạch.

01-Trong tập Thơ Đường I, Văn học, Hanoi, 1987, do Nam Trân chủ biên, và tập thể, thì ghi: Hương âm vô cải mấn mao [ tồi ] , nhưng rất tiếc là trong sách chỉ có bản phiên âm mà không có bản chữ Hán đi kèm. Các tư liệu sách giáo khoa của bậc THPT thì đều ghi là Hương âm vô cải mấn mao [ tồi ].
02-Tập Thơ Đường của cụ Trần Trọng Kim, NXB Tân Việt 1950 ghi là tồi []. Tập này cụ TTK dịch trong những ngày lưu trú tại Singapore,1944.
03- Tập Đường thi trích tuyển của cụ Bùi Khánh Đản, được viết lại khá kỹ, NXB Văn học, 2006, có sự giúp đỡ của kiều bào hải ngoại, trong danh mục tham khảo tiếng Trung của cụ có 30 quyển, trong đó có 7 quyển thơ Đường, không biết cụ dùng bản Đường thi tam bách thủ nào ? Cụ cũng dùng chữ tồi [] (trang 435) như cụ Trần. 

b)Trường hợp 2 : [ ] là chữ thôi là thôi thúc

04-Giáo sư Đại học VKSG &ĐHSP SG, Cụ Trần Trọng San trong cả ba tập Thơ Đường, từ tập Thơ Đường (cuốn I) trong bản tái bản lần hai 1965, và cả đến lần tái bản thứ ba 1970, (thứ nhất 1957), do  nhà XB Bắc Đẩu phát hành, kể cả tập Thơ Đường (biên dịch xuất xứ từ tập Poems of the T’ang Dynasty  (Hoa Kỳ), do NXB Thanh hóa, 1997 (trang 44), nghĩa là 32 năm sau, Cụ vẫn viết 
Hương âm vô cải mấn mao [thôi] 

Thôi [] có lẽ cụ San lấy từ sách Đường thi tam bách thủ của Sử Cúc Nhân, Hương Cảng, 1953.

c)Trường hợp 3 : [ ] là chữ thôi là đẩy lên 

05-Tập Đường thi tuyển dịch, nhà sách Trẻ, 1997, của Lê nguyễn Lưu, thì ghi [thôi] , trang 272. Lê nguyễn Lưu là nhà biên khảo cẩn thận, sách được nhà sách Trẻ của anh LNĐ, là một cử nhân VK SG, DHSPSG vốn rất kỹ tính. Họ cũng đáng được tin tưởng lắm. 

d)Trường hợp 4 :  [ ]  là chữ suy 

06-Bản Đường thi tam bách thủ của Hành Đường Thoái Sĩ là bản được xem như nghiêm túc nhất, bản này được các trường ĐH tại Hoa Kỳ hay tại ĐH Taiwan dùng trong việc giảng dạy thì viết [], đọc là suy. Suy [] "ngữ nghĩa như trong chữ suy vong, Suy [] trái với nghĩa chữ "thịnh" [].

Nguyên tác đúng là 

回鄉偶書其一
少小離家老大迴, 
鄉音無 改 鬢毛衰
兒童相見不相識, 
笑問客從何處來。 

Phiên âm 

Hồi hương ngẫu thư kỳ 1 

Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi 
Hương âm vô cải, mấn mao suy 
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức 
Tiếu vấn : " khách tòng hà xứ lai". 

07-Bạn thấy đấy, bản chữ thảo bên cạnh là bản viết tay của Cánh Sanh cư sĩ Khang hữu Vi [tức học giả  Khang hữu Vi 康有为 (1858-1927) ] cũng viết là Suy (nguồn : wikipedia, sưu tập của Nantosoyo Collection, Japan).

Ông xa quê một một thời gian dài, trốn chui trốn nhủi tại Nhật Bản để tìm đường cứu nước, ngày ông quay trở về nước là ngày cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 do Tôn Dật Tiên lãnh đạo thành công. Lúc ngồi viết tay lại bài thơ này của Hạ Tri Chương hẳn lòng ông cũng như ông già Chương trong bài. 

Có mâu thuẩn không khi laiquangnam theo cụ Trần Trọng Kim ?

Lý do thứ nhất về lý ,đã có một tác giả (TTK)  và hai tập thể biên tập (một của VVH Hà Nội  và một là bè bạn của cụ BKĐ), như đã đề cập ở trường hợp a) .Các vị đã dùng chữ [tồi ], trong đó tập thể những người biên tập lại tập sách của cụ BKĐ tôi nghĩ là nghiêm túc nhất. 
Lý do thứ hai về tình, do vì laiquangnam còn nhắm đến đối tượng đang là học sinh trung học tại Việt Nam, với họ là kỷ niệm thời đi học trong trường Trung học phổ thông ,thời gian còn rất mới ,có thể hiện nay là SV … , họ đã thuộc lòng bản phiên âm này, họ đã từng phải trả bài cho cô thầy khi còn trẻ, họ vẫn nhớ như in.
Cuối cùng nhắm đến các giáo viên hiện đang đứng lớp có thể xử dụng bài này như là tài liệu tham khảo cho giáo án của mình . 
Thì ra với "Tàu gốc" mà Thơ Tàu cũng tam sao thất bổn lắm, tùy nguồn tham khảo mà tác giả Việt Nam phiên âm. Không phải lỗi ở các vị viết sách trên, vả lại chuyện đính chính không phải là chuyện của người Việt chúng mình. 

 -o0o0-
Tham khảo 

Ngoài các sách nêu ở trên, laiquangnam còn xử dụng :

01-Thư quán bản thảo, số 35, NJ, USA.(laiquangnam viết lần đầu trong một lúc cao hứng qua mail tâm tình cùng bè bạn và khách thơ) .

02- Bùi Khánh Đản, Đường thi trích dịch, nhà xuất bản Văn Học, 2006 

03-Laiquangnam, Đường thi nửa chặng, bản thảo, (do laiquangnam tuyển chọn cộng thêm các bài do Khách thơ giới thiệu với, có lẽ theo Laiquangnam nó gần như đủ những bài thơ Đường tạm nghĩ là hay nhất (?) .

05- Trong quá trình viết bài này, laiquangnam có xử dụng một số tư liệu khác trên mạng internet,  và hai ba năm trước đây, nếu Khách thơ đã từng đôi lần đọc bản dịch của laiquangnam trên http://www.caliweekly.com với lòng bao dung thì laiquangnam cám ơn lắm. Ngày ấy mới tập làm quen với văn giới qua sự tử tế của bè bạn ở CA, Hoa Kỳ. 

Saigon, cuối tháng tám  2009.
laiquangnam viết lại từ 
http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/lqn_hatrichuong_hoihuongngauthu.htm


Lời cám ơn của người viết bài  : Vô vàn cám ơn chị LĐK đã bỏ công sưu tầm bảng viết tay của KHV, mục (7)  để khách thơ và giáo viên đứng lớp hiện nay có thêm tư liệu tham khảo cho phần ngoại khóa của mình. laiquangnam