Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về  ]          [ Trang Chủ ]

Bách Gia Chư Tử
Thảo Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh
biên soạn
-
Phần Hai 
*
Thân thế Bách Gia Chư Tử
1. Khổng Tử. * 2. Đệ Tử Khổng Tử. * 3. Mạnh Tử. * 4. Tuân Tử. * 5. Lão Tử. * 6. Trang Tử và những người trong phái Đạo gia. * 7. Mặc Tử và môn đệ. * 8. Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi. * 9. Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ. * 10. Tô Tần, Trương Nghi và Khuất Nguyên. * 11. Phụ Lục : Chư Tử dưới thời Tây Hán - Niên biểu những việc quan trọng dưới thời Chư Tử.

Gần đây, học giả Hạ Tăng Hựu có viết : " Các sách của Chư Tử, ở nước Trung Hoa, từ xưa cho đến nay là những thiên chính luận rất tinh vi, rất thâm thuý về phương diện triết học, về phương diện văn chương. Đó là những áng văn rất đẹp, cho đến trăm đời sau, nghiên cứu cũng không sao cùng tận được. (Xem trong quyển Trung Quốc sử). Thế nên một số học giả cho rằng Chư Tử là những cổ thư cần đọc, vì Chư Tử có thể đứng ngang hàng với Kinh và Sử.

Mạnh Tử có nói : " Đọc thi, thơ là muốn biết người ấy như thế nào, luận đời người ấy như thế nào... Đọc những cuốn sách của Chư Tử là cũng muốn biết những người ấy, luận đời ấy...

Chư Tử viết sách, lập học thuyết là muốn cải tiến chế độ, cứu đời. Như thế thì tư tưởng học thuyết của những người ấy rất có quan hệ với hoàn cảnh, xã hội đương thời, thế nên trước hết phải biết những người ấy, luận đến đời ấy rồi sau đó mới đọc những sách của người ấy.

Sách Hàn Chí ghi các tác phẩm của Chư Tử rất nhiều, có những loại rõ ràng là do người đời sau viết mà ghi là của cổ nhân, như các loại sách của Thần Nông, Hoàng Đế chẳng hạn, có những loại của người đời sau ghi chép của người đời trước đề tên như sách của Quản Tử, Án Tử, có những loại sách đã mất mát, không thể tìm đâu để làm bằng chứng được, như các loại sách của phái Âm dương và Tiểu thuyết.

Cũng có loại sách ghi tên người này người nọ, nhưng thật ra là của môn khách viết, như các loại sách Lữ Lãm, Hoài Nam v.v... Có loại sách đã mất rồi lại xuất hiện, đó là loại giả, như dưới thời nhà Minh có loại Mạnh Tử ngoại thơ chẳng hạn.

Trong phần lược khảo về thân thế của Chư Tử nầy, chúng tôi dùng những tài liệu có thể minh chứng được, hoặc có những chỗ mơ hồ, nhưng cũng căn cứ vào những tài liệu có thể tin được, những tài liệu nào không đáng tin thì bỏ, đó là điều cần thiết khi tìm hiểu các nhân vật thời xưa...

Chúng tôi cố gắng tránh những lỗi lầm thấy đâu chép đó, hay là nhận định một cách võ đoán. Chỗ nào chưa biết rõ, thì cứ để là chưa hiểu, thế nên thà là sơ lược mà còn hơn là dài dòng để phạm những sai lầm thất thiệt.

Cổ sử là tài liệu duy nhứt có thể căn cứ vào đó để tìm hiểu thân thế Chư Tử một cách đáng tin cậy.

Trong phần nầy, khi tìm hiểu thân thế Chư Tử, về phần các nhân vật trọng yếu thì theo sách Sử Ký, thêm vào đó những tài liệu có thể chứng minh được, nếu những nhân vật nào đó không có chép trong Sử Ký, thì sưu tập trong các sách khác có thể tin được, rồi tóm lại, có khi một nhân vật chép thành một chương, có khi một chương lại gom nhiều nhân vật, tuỳ theo sự quan trọng của mỗi nhân vật trong môn phái.
 

1. - Thân thế Khổng Tử

Phần trên đã nói, thời ấy đệ tử gọi thầy là " tử " và bắt đầu từ thời Khổng Tử.

Đệ tử ghi chép lời thầy thành sách, và lập nên việc sáng tác của tư nhân cũng bắt đầu từ pho Luận Ngữ, thế nên trong Chư Tử, Khổng Tử được kể là nhân vật thứ nhứt, và sách của Chư Tử pho Luận Ngữ được kể là pho sách thứ nhứt.

Từ thời Khổng Tử trở về trước, chỉ có quan học mà không có thầy tư nhân, chỉ có quan thơ mà không có sách do tư nhân sáng tác.

Khổng Tử đã mở phong trào tư nhân dạy học, tư nhân sáng tác, chẳng những đã thành tôn sư của Nho gia, mà còn là người mở đầu cho Chư Tử, mở một kỷ nguyên mới về giáo dục và học thuật cho nước Trung Hoa, trở thành một học giả không tiền trong lịch sử, cho nên trong phần nầy, kể ông là nhân vật đầu tiên, đứng trước tất cả Chư Tử.

Khổng Tử đã từng tham chánh ở nước Lỗ, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn rồi đi châu du các nước, bất đắc chí với chư hầu sau cùng trở về nước Lỗ, sống trong cảnh áo vải cho đến già.

Thế nên lúc đó ông liên hệ rất ít đến chánh trị, nhưng lại dạy học, viết sách. Nhờ đó mà mở đường cho Chư Tử sau nầy...cho nên ảnh hưởng của ông rất lớn đối với nền giáo dục, học thuật của đời sau.

Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết Nho gia rất thạnh ở thời kỳ đầu thời Chiến quốc, đầu đời Hán Cao Tổ, Khổng Tử rất được sùng bái, và cũng bắt đầu từ thời ấy, Khổng Tử được các bậc Đế Vương sùng bái.

Sau đó Văn đế lại thích Hoàng Lão, Cảnh đế thích Hình, Danh gia, ít khi tôn sùng Nho gia, cho đến đời Võ đế, Khổng Tử mới được đặc biệt sùng thượng và cũng từ đó Nho gia được độc tôn.

Từ đó trở đi, trải qua các đời như Đường Huyền Tôn, truy phong Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, Tống Chơn Tôn truy phong thêm là Nguyên Thánh Văn Tuyên Vương rồi Đại thành chí Thánh Văn Tuyên Vương, Văn miếu được thiết lập khắp các nơi trong nước, lễ tế rất long trọng, cho đến đời Minh, Thanh vẫn không suy giảm.

Các học giả, bất câu dưới thời Hán, Tống, vô luận cổ văn hay kim văn, dù là Trình Chu hay là Lục, Vương cũng đều xem Khổng Tử như là khai tổ.

Đầu năm Trung Hoa Dân Quốc, Viên Thế Khải dùng chánh sách tôn Khổng Tử và Khang Hữu Vi muốn dùng Khổng giáo làm quốc giáo.

Cho đến lúc chế độ vua quan suy vi, các học giả cho rằng Khổng Tử là người bảo vệ cho chế độ chuyên chế nên nổi lên phản đối.

Bình tâm phê phán, đối với bản thân của Khổng Tử, thì đó là một nhân vật đáng tôn kính vì thế mà trải qua nhiều đời, ông được sùng thượng, còn học thuyết của ông có được tôn sùng mãi mãi không đó là một vấn đề khác.

Tư Mã Đàm khi bình luận 6 học phái, rất đặc biệt sùng thượng " Đạo đức ", Tư Mã Thiên viết sử ký thì độc tôn Khổng Tử, có lẽ vì thời đại của hai cha con có khác nhau, vì phong trào mỗi lúc nên mới có sự khác biệt, mỗi người có mỗi tư tưởng riêng không thể cưỡng ép cho đồng được.

Sách Sử Ký sắp xếp thiên Bổn Kỷ chuyên ghi các vì Đế Vương, Thế gia thì ghi chư hầu, Liệt truyện thì các nhân vật khác.

Khổng Tử là dân áo vải nhưng lại được đặc biệt đứng vào hàng thế gia, là cố ý muốn suy tôn. Vương An Thạch trong thiên Khổng Tử Thế gia nghị đã phê phán " Tự làm loại cái lệ, tới lui mất chỗ đứng ".

Vương Ứng Lân trong sách Khổng học ký văn, dẫn lời của Lý thị viết " Muốn tôn Đại Thánh Nhơn mà trái lại làm cho thấp ".

Xét ra, việc viết sử, bắt đầu từ quyển Sử Ký, xét kỹ theo lệ, lấy thiên Bổn Kỷ làm giềng mối cho toàn quyển sách để biểu thị trung tâm chánh trị đương thời ở chỗ nào, cho nên không chỉ hạn nơi việc ghi các vị Đế vương mà thôi.

Như dưới thời Chiến quốc, Tần chưa thống nhứt, Hạng vương chưa là thiên tử, mà trên thực tế, lúc đó đã thành trung tâm chánh trị cho nên lập Hạng Võ Bản Kỷ (có kẻ cho rằng, Thái Sử Công lập Hạng Võ Bản Kỷ là tôn Hạng Võ, truất Lưu Bang, đó là chỉ là ức thuyết, gần đây lại có người cho rằng Thái Sử Công muốn tôn cuộc cách mạng của bình dân, lại càng không đúng).

Khổng Tử không phải là người trung tâm chánh trị của lúc cuối thời Xuân Thu, cho nên không lập Bản Kỷ cho ông...

Chư hầu gọi là thế gia, là tử tôn thế tập (cha truyền con nối). Trong đoạn chót của Khổng Tư thế gia, có ghi con cháu của Khổng Tử truyền được học thuyết của ông một cách rõ ràng.

Chẳng những con cháu của Khổng Tử, mà các Nho gia hậu học, từ Nhan, Tăng, Du, Hạ và các môn đệ khác, đến Mạnh Tử, Tuân Tử và chư nho dưới thời Tây Hán đa số đều noi theo Khổng Tử.

Cho đến Mặc Tử, Trang Tử, mặc dầu học thuyết của những người nầy trái ngược hẳn với Khổng Tử, nhưng xét cho kỹ, cũng thừa hưởng được của Khổng Tử mà dựng nên học thuyết của mình.

Con cháu của chư hầu thế tập chức vị, đất đai mà được phú quí, còn con cháu của Khổng Tử cùng các môn đệ đời đời truyền học thuyết của ông, đời đời giữ những lời nói của bậc tôn sư, lấy học thuyết làm vinh cho gia đình, như thế là cũng không khác gì con cháu chư hầu được thế tập chức tước, điền thổ, đúng như lời nhà học giả Vương Minh Thạnh đã nói " suy tôn rất đúng, châm chước rất hay ".
 

KHỔNG TỬ
Trích trong Đại Cương Triết Học Trung Quốc của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (trang 161 quyển Thượng). (Theo Grand Larousse Encyclopédique)

Thân thế Khổng Tử.

Phần nầy chúng tôi xin chép lại thiên Khổng Tử thế gia khảo trong sách Sử Ký, thêm phần chú thích cho bạn đọc dễ nhận xét. Vì trong Sử Ký có những đoạn người đời sau thêm vào hay chép những câu sắp lầm lẫn nên chúng tôi đóng dấu ngoặc cho bạn đọc dễ nhận.

Khổng Tử sanh ở nước Lỗ, làng Xương Bình, ấp Trâu.

(Ấp Trâu, tức nay là Trâu thành về phía Đông Nam, tỉnh Sơn Đông, huyện Khúc Phụ. Xương Bình sơn hiện nay ở phía Đông Nam, cách huyện Khúc Phụ 15 dặm. Khổng Tử sanh ở ấp Trâu lớn lên dời đến ở xóm Khuyết Lý trong thành Khúc Phụ).

Trước tiên, ông là người nước Tống, trước hết Khổng Phòng Thúc hạ sanh Bá Hạ, Bá Hạ sanh Thúc Lương Ngột. (Ngày sanh của Khổng Tử là ngày 27 tháng 8 theo ngày tháng của âm lịch ; Ngày ấy cũng là ngày Tết của các thầy giáo Trung Hoa vì Khổng Tử là người đầu tiên dạy học tư nhơn.)

Lúc còn nhỏ Khổng Tử rất thích chơi đùa, thường bày cái trở, cái đậu, y như là cúng kiến...

Rồi mẹ Khổng Tử chết, người đất Trâu chỉ chỗ mộ phụ thân ông, ông liền đem mẹ đến hợp táng ở đất Phòng. Đất Phòng ở tại phía Đông nước Lỗ.

Quí thị mời kẻ sĩ, Khổng Tử đến, Dương Hổ chê, bảo " Quí thị mời kẻ sĩ nhưng không dám mời nhà ngươi đâu ! "Vì thế Khổng Tử lui.

Lúc đó, Khổng Tử mới 17 tuổi. (Lúc đó Khổng Tử chỉ mới 17 tuổi, chưa có thanh danh cho nên bị Dương Hổ chê).

Giả Đạt cho rằng lúc đó Khổng Tử đã 35 tuổi là sai lầm.

Lỗ đại phu là Mạnh Ly Tử, bịnh gần chết, dặn con là YÙ Tử : " Khổng Khâu là hậu duệ của Thánh nhơn, bị diệt ở nước Tống, Tổ phụ ông là Phất Phủ Hà là dòng dõi nước Tống, mà nhường cho Lệ Công, cho đến đời phụ thân ông ấy, phụ giúp cho Đới, Võ và Tuyên Công, giúp cả 3 đời mà vẫn luôn luôn cung kính ".

Ta nghe con cháu của Thánh nhơn, tuy chẳng có tiếng đời nay, nhưng thế nào cũng có ngày đạt, bây giờ Khổng Tử tuy còn nhỏ mà ham lễ, thì thế nào người ấy cũng đạt, nếu ta chết, con phải thờ người ấy làm thầy.

Khi Ly Tử chết, YÙ Tử và người nước Lỗ tên Nam cung Kỉnh Thúc, đến học lễ với Khổng Tử.

Năm ấy, Quí Võ Tử mất, Bình Tử lên thế vị.

*

Khổng Tử nghèo và hèn, đến khi lớn thường làm Ủy lại, đong lường đầy đủ, làm tư chức lại thì gia súc no đủ... Rồi từ đó làm chức Tư Không.

Rồi ông rời nước Lỗ, ở nước Tề không được ông lại ra đi, ông lại rời nước Tống, Vệ, rồi lại bị khổn ở giữa hai nước Trần, Thái... vì thế ông trở về Lỗ.

Khổng Tử cao 9 thước 6 tấc, người đều cho ông là người cao lớn và cho là lạ.

(Nước Lỗ tiếp đãi tử tế, ông mới trở về Lỗ.)

Chức Ủy lại là coi giữ kho, cho nên mới nói đong lường đủ và sổ sách đàng hoàng. Làm Tư lại, tức là xem việc nuôi trâu, dê để cúng tế.

Đoạn văn trên có chỗ lầm lẫn : " Mấy chữ : rồi từ đó làm chức Tư không phải để phía sau đoạn : ông mới trở về nước Lỗ ".

Ông Khổng Tử lúc 20 tuổi, mới bắt đầu ra làm quan ở nước Lỗ, với chức Ủy lại, năm 21 tuổi làm Thừa điền.

Họ Khổng, khi ở nước Tống, thuộc dòng quí tộc, khi chạy sang nước Lỗ, trở thành bình dân, từ lúc nhỏ, ông đã mồ côi cha, cho nên nghèo hèn, cho nên khi lớn lên, vì nghèo mà phải đi làm quan với chức Ủy lại, Tư chức lại. Mạnh Tử đã gọi " bực thứ nhơn đi làm quan " là như thế.

Nam cung Kỉnh Thúc tâu với vua Lỗ " xin cho Khổng Tử đi qua nhà Châu. Vua Lỗ liền cho một chiếc xe 2 ngựa.

Đến nhà Châu, Khổng Tử ra mắt Lão Tử.

Đến lúc ra về, Lão Tử đưa mà bảo rằng : " Tôi nghe kẻ giàu sang đưa người dùng tiền của, người nhơn đưa tiễn người thì bằng lời nói... " Tôi không giàu sang, lạm dụng mình là người nhơn, đưa ông có mấy lời : " Thông minh, xét nét kỹ thì gần với cái chết...vì ưa bàn luận người khác, biện bác rộng rãi thì nguy đến thân mình, vì nêu lên cái dở của người...kẻ làm người không nên nghĩ đến mình, làm tôi người, thì cũng không nên nghĩ về mình. "

Khổng Tử từ nhà Châu trở về nước Lỗ, học trò lại càng tiến thêm.

[Chuyện Khổng Tử qua nhà Châu ra mắt Lão Tử, thấy có chép trong quyển Lão Trang Thân Hàn truyện và Gia Ngữ Quan Châu giải.]

Trong thiên Thiên đạo, sách Trang Tử có viết : Khổng Tử muốn qua phương Tây, xem sách ở nhà Châu. Tử Lộ thưa : " Lộ nầy nghe nhà Châu có người giữ kho sách là Lão Đam, thôi làm quan, về nhà ở ẩn...thầy muốn xem sách thì hãy đến thử xem ".

Khổng Tử đáp : " Hay lắm ". Liền qua ra mắt Lão Đam mà Lão Đam không cho.

Trong sách Lão Tử truyện có viết : Lão Tử là người nước Sở, nếu đã bãi chức thì về quê ở Sở, đâu còn làm quan giữ kho sách ở nhà Châu.

Cũng có người cho rằng, Khổng Tử đến gặp Lão Đam, nhờ giới thiệu đến xem sách, nhưng Lão Đam không đồng ý. Như thế thì Khổng Tử chỉ có mục đích đi xem sách, chớ không phải đi gặp Lão Tử.

Trong sách Sử Ký có ghi rõ rằng : Khổng Tử qua nhà Châu xem sách, và ra mắt Lão Đam, khác hẳn với lời nói trong sách Trang Tử. Trang Tử thuộc phái Đạo gia, giả sử như Khổng Tử có đến tìm Lão Tử để hỏi về việc Lễ, tất nhiên là Trang Tử phải ghi rõ ràng, đó là chỗ còn nghi ngờ.

Hơn nữa, giọng nói của Lão Tử rất đáng nghi ngờ, có lẽ do người đời sau (thuộc phái Đạo gia) thêm vào để đề cao Lão Tử.

Về việc Khổng Tử đến nhà Châu vào lúc mấy tuổi thì chưa có tài liệu nào dám tin được, có sách ghi lúc đó ông mới 17 tuổi.

Khổng Tử là người ham học, có lẽ lúc đó ông đã học được rất nhiều sách rồi mà vẫn còn chưa cho là đủ, nên muốn đi thật xa, đến nhà Đông Châu, để xem kho sách của vua, chúa.

Việc ấy xảy ra năm nào thật khó xác định, đành chịu khuyết nghi. Nhưng theo sự ước đoán thì lúc ấy ông đã gắng công học tập được một thời gian khá lâu, có lẽ vào lúc tuổi " tam thập nhị lập ".

Khi xem sách xong trở về, ông càng tiến bộ hơn, đệ tử đến nhiều hơn, có nhiều thanh danh hơn trước nên được nước Lỗ dùng.

Lúc ấy, ở nước Tấn (vua Bình Công dâm) quan Lục Khanh chuyên quyền, phía Đông đánh các chư hầu.

Vua Sở (Linh vương) binh mạnh lấn lướt trung ương. Nước Tề lớn mà gần Lỗ, nước Lỗ nhỏ yếu, nếu theo Sở thì Tấn giận, còn theo Tấn thì Sở đến đánh, nếu không đề phòng Tề, thì Tề cũng xâm Lỗ.

Năm Lỗ Chiêu Công thứ 20, lúc đó Khổng Tử được 30 tuổi.

Tề Cảnh Công và Án Anh đến nước Lỗ, Cảnh Công hỏi Khổng Tử : " Ngày xưa Tần Mục Công nước nhỏ, ở nơi hẻo lánh, mà nên nghiệp bá tại sao vậy ? "

Khổng Tử  đáp : " Nước Tần tuy nhỏ, nhưng chí lớn, ở chỗ tuy hẻo lánh, nhưng việc làm ngay thẳng, biết dùng người hiền tài, như vậy có thể làm đến bực đế vương, chỉ mới làm nên nghiệp bá là còn nhỏ vậy ".

(Theo sách Tề thế gia ký thì Cảnh Công với Án Tử đi săn gần biên giới nước Lỗ, nhơn đó vào nước Lỗ luôn, liền hỏi " lễ " với Khổng Tử.

Trong sách Xuân Thu không thấy có ghi chép chuyện nầy, hơn nữa lúc đó Khổng Tử  ở nước Lỗ chưa có tiếng tăm gì, làm sao vua nước láng giềng đến hỏi lễ được.

Có lẽ người đời sau muốn suy tôn Khổng Tử nên mới bày ra chuyện nầy.)

Khổng Tử 35 tuổi, Quí Bình Tử và Hậu Chiêu Bá vì đá gà chọi mà đắc tội với Lỗ Chiêu Công. Chiêu Công đem binh đánh Bình Tử, Bình Tử hợp với Mạnh tôn thị, Thúc tôn thị, 3 nhà hợp công Chiêu Công. Binh Chiêu Công bại, chạy sang nước Tề (Tề đưa Chiêu Công ở Can hậu).

(Chuyện nầy thấy có ghi rõ trong Tả truyện. Can hậu hiện nay là An thành huyện, tỉnh Hà Bắc.)

Nước Lỗ loạn, Khổng Tử qua Tề (gia thần Cao Chiêu Tử muốn cho Cảnh Công hay) cùng với Thái sư nước Tề bàn về nhạc, nghe nhạc Thiều, rồi học 3 tháng mà không hề biết vị thịt, người nước Tề rất khen.

Cảnh Công hỏi việc chánh với Khổng Tử, Khổng Tử nói : " Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con ".

Cảnh Công khen : " Hay lắm ! Như vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, con chẳng ra con, tuy có lúa, ta có thể ăn được không ? "

Ngày khác, lại hỏi việc chánh với Khổng Tử, Khổng Tử đáp : " Việc chánh ở chỗ tiết kiệm tài vật "

Cảnh Công nói...

(Muốn đem ruộng Ni Khê phong cho Khổng Tử, Án Anh đến tâu : " Vả bọn nho là người khéo léo mà không làm theo đúng phép, kiêu ngạo mà hay thuận theo người. Không thể cho làm người giúp việc được...sùng thương tang lễ, cứ bi ai phá sản để lo việc tống táng cho trọng hậu, không thể lấy đó làm phong tục được, đi du thuyết kiếm lợi, không thể theo đó trị nước.

Từ khi bậc đại hiền hết, nhà Châu đã suy, Lễ Nhạc thiếu sót, bây giờ Khổng Tử lại muốn trau tria thêm, làm lễ phiền phức trọn đời không thể tìm cái học của ông ta, nếu bây giờ không thể tìm cái Lễ đó, mà lại muốn dùng để thay đổi phong thái của Tề thì chẳng phải là việc giúp cho dân vậy.

Sau đó Cảnh Công cung kính gặp Khổng Tử mà không hỏi Lễ, ngày khác ngăn Khổng Tử mà bảo rằng : Đãi ông như họ Quí, thì tôi không thể làm được, nên chỉ đãi giữa chừng của hai họ Quí, Mạnh mà thôi.

Đại phu nước Tề muốn hại Khổng Tử, Khổng Tử nghe được chuyện đó. Cảnh Công nói : " Tôi đã già rồi, không dùng được gì những lời của ông cả ".)

Khổng Tử liền trở về nước Lỗ.

(Đoạn văn đóng trong 2 dấu ngoặc là chỗ có nghi vấn. Về chuyện Cảnh Công muốn đem ruộng Ni Khê phong cho Khổng Tử, không thấy chép trong sách Luận Ngữ.)

Pho Sách ẩn có viết : Thuyết nầy xuất phát từ các sách " Án Tử xuân thu và Mặc Tử, văn thấy hơi lạ ".

Mấy học giả đời sau như Kim Lý Tường và Thôi Thuật đều cho rằng không thể tin được.

Thiên Bát dật trong pho Luận Ngữ ghi lời Khổng Tử : " Án Bình Trọng rất khó cư xử với người, ở lâu mà cung kính ".

Án Tử ngăn Khổng Tử không phải là sự thật. Trong sách " Thù Tứ khảo tín lục " có chép : Lúc Lỗ Chiêu Công chạy qua nước Tề thì Án Tử đã làm quan ở đó 40 năm rồi, năm sau đó có luận về Tuệ tinh (sao chổi) trong sách Tả truyện có ghi, rồi sau đó không thấy nhắc gì đến chuyện Án Anh nữa. Lúc Khổng Tử đến nước Tề, có lẽ Án Anh đã qua đời.

Mạnh Tử có nói : Khổng Tử qua nước Tề, không kịp chắt nước cơm mà đi, nhưng tại sao ra đi thì không có chứng cớ gì để tìm hiểu cho ra sự thật).

*

Khổng Tử 42 tuổi, Chiêu Công mất ở Can hậu, Định Công lên ngôi.

Mùa hạ, năm Định Công thứ 5 Quí Bình Tử mất, Hoàn Tử kế vị (Quí Hoàn Tử đào giếng, gặp hố đất, ở trong có con như dê, hỏi Trọng Ni, nói đó là chó, Trọng Ni nói : " Theo chỗ tôi nghe, đó là dê. "

Khâu nghe nói rằng : Loài quái của cây đá có : Đâu, vọng, lượng, loài quái của nước có : Long, võng, tượng. Loài quái của đất là phần dương.

Nước Ngô đánh nước Việt, được xương cốt cả xe, Ngô sai sứ đến hỏi Trọng Ni : " Xương của ai mà lớn vậy ? "

Trọng Ni đáp : " Vua Võ hội quần thần ở Cối Kê sơn, họ Phòng phong đến trễ, vua Võ giết trị tội, xương cốt chở đầy xe, vì thế xương mới lớn. "

Khách nước Ngô hỏi : " Ai làm thần ? "

Trọng Ni đáp : " Thần núi, sông, đủ làm kỷ cương cho thiên hạ..giữ đó là thần, xã tắc là chư hầu đều thuộc vua... "

Khách nước Ngô lại hỏi : " Họ Phòng phong giữ ở đâu ? "

Trọng Ni đáp : " Vua Uông Võ giữ núi Phong võ họ Ly, dưới thời Hạ, Thương, là Uông Võ, dưới thời nhà Châu là Trường Địch, bây giờ gọi là đại nhân ".

Khách lại hỏi : " Con người cao chừng bao nhiêu ? "

Trọng Ni đáp : " Họ Tiều Nghiêu thì 2 thước, rất thấp, còn người cao lắm thì bất quá bằng 10...đó là hết số ".

Người khách nước Ngô liền bảo : " Hay lắm ! Thật là Thánh nhân ! ")

(Sách " Gia ngữ biện vật giải " có chép chuyện Hoàn Vương bắt được Phần dương, đó là sự thật.

Còn đoạn viết " Ngô đánh bại Việt ở Cối Kê " trở về sau là do kẻ " tục nho " muốn cho rằng Thánh nhân học nhiều, chuyện gì cũng biết, cho nên mới bày ra chuyện truyền thuyết ấy.

Sử Công (Tư Mã Thiên) trích lại là có ý muốn đề cao Khổng Tử học rộng, nhưng không ngờ, những lời không chứng cớ, giọng nói không trang nhã, là không phải sử liệu chánh thức, bây giờ nên bỏ là đúng hơn.)

Sủng thần của Hoàn Tử là Trọng Lương Hoài cùng Dương Hổ có hiềm khích. Dương Hổ muốn đẩy Hoài, Công Sơn Bất Nửu ngăn việc đó.

Mùa thu năm ấy Hoài càng kiêu, Dương Hổ bắt Hoài, Hoàn Công giận, Dương Hổ liền bắt giam Hoàn Công rồi sau đó ăn thề mà thả Hoàn Công. Vì thế Dương Hổ càng xem thường Quí thị. Quí thị cũng không chường mặt, bồi thần cầm quốc chánh, vì thế từ Đại phu trở xuống đều xa chánh đạo, cho nên Khổng Tử không làm quan nữa, trở về nhà mà soạn lại Thi, Thơ, Lễ, Nhạc...đệ tử càng đông, từ phương xa đến, không ai là không học với Ngài.

(Chuyện nầy trong Tả truyện có ghi. Trong Luận Ngữ chép Dương Hổ là Dương Hóa, trong sách Mạnh Tử khi thì chép Dương Hổ, lúc chép Dương Hóa.)

Định Công năm thứ 8 (Công Sơn Bất Nửu vì bất đắc ý với Quí thị nên...) Dương Hổ làm loạn, muốn phế dòng chánh của Tam Hoàn lập dòng thứ, Dương Hổ giả làm lành và bắ Quí Hoàn Tử.

Hoàn Tử lừa được nên thoát khỏi. Dương Hổ không hơn được chạy sang Tề, lúc đó Khổng Tử 50 tuổi (Công Sơn Bất Nửu dùng đất Phí làm phản Quí Tử, rồi sai người đêán triệu Khổng Tử.

Khổng Tử không đem đạo ra thi hành đã lâu, nên buồn không chỗ đem ra dùng, và không ai dùng mình nên nói " Nhà Chu, Văn, Võ, nổi lên ở Phong sào mà làm vua, bây giờ đất Phí tuy nhỏ, nhưng có thể làm được không ? "

Ông muốn qua đó.

Tử Lộ không vui liền ngăn Khổng Tử, Khổng Tử nói : " Vả kẻ triệu ta, không lẽ phí công sao ? Như dùng ta, biết đâu sẽ thành nhà Đông Châu ?

Nhưng sau cùng ông không đi.)

(Về chuyện Công Sơn Bất Nửu làm phản, trong Tả truyện ghi thật rõ : " Mùa Hạ, năm Định Công thứ 12, Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, tham dự việc chánh, chủ trương trừng phạt Tam gia, Công Sơn Bất Nửu làm quan Tể đất Phí liền làm phản, tấn công Định Công, Khổng Tử sai Thân Câu Tu, Nhạc Hân chinh phạt và đánh bại Công Sơn Bất Nửu, Nửu chạy sang Tề.

Công Sơn Bất Nửu làm phản, là vì phản đối Khổng Tử, đâu có lẽ lại mời người mình chống đối đến tham chánh hay sao ?

Hơn nữa, Khổng Tử đã sai người đi chinh phạt Bất Nửu, thì đâu có lý nào khi nghe Nửu mời lại muốn đi đến ? Rồi lại nghĩ rằng sẽ giúp Nửu để gầy dựng thành nhà Đông Châu, thật là một điều hết sức vô lý.

Chuyện nầy thật đáng nghi, trong sách Thù Tứ khảo tín lục cũng nhận xét như thế, đoạn nầy nên cắt bỏ cho hợp lý.)

Sau đó Định Công dùng Khổng Tử làm Trung đô tể, một năm mà 4 phương đều theo phép tắc, từ Trung đô tể, Khổng Tử làm Tư Không, rồi từ Tư Không lên làm (đại) Tư Khấu.

(Trung đô là một ấp của nước Lỗ, ngày nay ở phía Tây huyện Văn Thượng tỉnh Sơn Đông.

Thưở đó Chư hầu chỉ có chức Tư Khấu, chớ không bao giờ có Đại Tư Khấu. Chữ Đại là sai...Người đời sau muốn tôn Khổng Tử nên thêm chữ Đại vào một cách sai lầm. Nên bỏ chữ Đại cho đúng).

Mùa Xuân năm thứ 10 đời Định Công, Lỗ đã bằng Tề, đến mùa Hạ (Đại phu nước Tề là Lê Sừ, bảo Tề Cảnh Công : Lỗ dùng Khổng Tử, cái thế tất làm nguy Tề) nước Tề sai sứ đến Lỗ mời đến hội ở Giáp Cốc để giao hảo.

Lỗ Định Công đi xe đến đó. Khổng Tử lo việc nhiếp chánh liền tâu : " Thần nghe nói nếu có việc văn thì phải có võ bị, có việc võ thì phải có văn bị. Đời xưa, khi chư hầu ra biên cảnh, thì phải có quan đi theo, xin vua đem theo quan Tư mã tả hữu.

Định Công nói : "  Phải ".

Liền đi đủ với Tư mã tả hữu, hội với Tần hầu ở Giáp Cốc, lập đàn vị, nền đất 3 cấp, dùng lễ hội ngộ tiếp nhau, xá nhường mà lên đàn, lễ dưng rượu xong, nước Tề có chức Hữu Tư bước tới tâu :

- Xin tấu nhạc tứ phương.
Cảnh Công đáp :
- Được.
Rồi cờ xí trương lên, kiếm kích vung ra, tiếng trống inh ỏi tiến tới.

Khổng Tử lật đật bước tới, leo lên bực đất, chưa hết một cấp giơ tay áo lên nói lớn :

- Hai vua ta đang hội giao hữu, nhạc di địch đến đây làm gì ? Xin hỏi quan Hữu Tư ?

Hữu Tư lại không đi.

Tả hữu liền nhìn Cảnh Công (và Án Tử) Cảnh Công sợ sệt liền cho bọn nhạc thối lui.

Giây lát, Hữu Tư nước Tề lại bước tới bảo :
- Xin tấu nhạc trong cung.
Cảnh Công đáp :
- Được.
Bọn con hát lại múa may bước tới, Khổng Tử bước ra, bước lên bực đất; chưa hết một cấp đã nói :

- Bọn thất phu mà lại làm rối loạn chư hầu, tội đáng giết !
Quan Hữu Tư liền thi hành theo phép, chặt tay chưn bọn ấy.
Cảnh Công sợ mà lung lay, biết lý mình không bằng, trở về mà hết sức sợ, bảo quần thần :

- Nước Lỗ dùng đạo quân quân tử để phò vua, còn các người dùng đạo di dịch để dạy cho quả nhân, làm đắc tội với vua Lỗ, bây giờ mới tính làm sao ?

Quan Hữu Tư liền đáp :

- Người quân tử có lỗi phải tạ bằng vật làm tin, người tiểu nhân thì tạ bằng văn. Như vua có ngại điều đó thì tạ bằng vật làm tin.

- Vì thế Tế hầu liền trả lại những đất Văn dương, Quyền đã lấy của nước Lỗ để tạ lại việc ấy.

(Trong sách Xuân Thu có chép rõ vụ Tề trả mấy vùng đất kể trên cho Lỗ, là do công của Khổng Tử, nhưng tình hình thật sự của cuộc hội ấy như thế nào, thì chưa rõ lắm, có lẽ người ta đã khoa trương thêm nhiều để đề cao Khổng Tử.)

Mùa Hạ, năm thứ 13, đời Định Công, Khổng Tử tâu với Địng Công :

- Làm tôi không chứa giáp binh, Đại phu không có thành cao 100 trỉ.

Khiến Trọng Do làm quan tể cho Quí thị để phạt Tam đô. Vì thế Thúc Tôn thị hạ đất Hậu trước, rồi Quí thị định đánh Phí, Công Sơn Bất Nửu, Thúc Tôn tiếp liền đem người Phí đánh Lỗ. Định Công và 3 người con vào cung Quí thị, lên đài Võ tử.

Người Phí tấn công tới, nhưng không được (có mũi tên bay bên cạnh Định Công).

Khổng Tử sai Thân Câu Tu, Nhạc Hân xuống đánh, người Phí thua, bị đuổi theo và bị bại ở Cô miệt. Hai ông liền chạy sang nước Tề, đất Phí bị hạ luôn...liền sửa soạn đánh đất Thành, Công Kiểm Xử Phủ bảo Mạnh Tôn :

- Đánh Thành, thì người nước Tề ắt kéo đến cửa Bắc, vả lại Thành là bình phong cho Mạnh thị, nếu không còn đất Thành, thì không còn Mạnh thị vậy, ta nên giả vờ là không biết...theo tôi thì không nên đánh Thành.

Tháng 12 Định Công vây thành, nhưng không lấy.

(Chuyện nầy có ghi trong Xuân Thu nhằm năm Định Công thứ 12, đây chép lộn là thứ 13.

Tam Đô là đô của Tam gia, Đất Hậu ở phía Nam huyện Đông Bình tỉnh Sơn Đông, đất Thành ở phía Đông Bắc huyện Ninh Dương tỉnh Sơn Đông.)

Định Công năm thứ 14, Khổng Tử 56 tuổi, từ Đại Tư Khấu, lên làm Nhiếp tướng, có sắc vui. Môn nhơn nói :

- Nghe nói người quân tử họa đến không sợ, phước đến không mừng...

Khổng Tử đáp :

- Có lời nói như vậy, nhưng cũng nên vui vì được làm kẻ dưới của người quí...

Ông liền giết Thiếu chánh Mão là Đại phu nướcLỗ đã làm loạn chánh.

Ông lo việc chánh trị trong nước 3 tháng người trong nước trở nên thành thật, nam nữ đi đứng riêng biệt ngoài đường, ngoài đường không lượm của rơi, khách bốn phương đến ấp chẳng cần quan Hữu Ty, y như là về nhà mình.

Người nước Tề nghe rất sợ liền nói :

- Khổng Tử làm việc chánh thì nên nghiệp bá, nên nghiệp Bá, thì đất ta rất gần, bây giờ ta nên chiếm trước...không nên để lâu.

Lê Sừ nói :

- Xin trước tìm cách ngăn trở, ngăn trở không được thì chiếm đất, đâu có chậm gì ?

Vì thế chọn gái đẹp nước Tề, 80 người, đều mặc áo đẹp, múa nhạc, đem ngựa 30 con đưa qua vua Lỗ...rồi bày nữ nhạc và ngựa ngoài cửa thành nam nước Lỗ.

Quí Hoàn Tử mặc thường phục đến xem đôi ba lần, sắp sửa nhận, liền cho vua Lỗ hay đi chơi khắp đường, và đến xem suốt ngày...trễ nãi cả việc chánh.

Tử Lộ nói :
- Phu Tử có thể bỏ đi rồi đó...
Khổng Tử đáp :
- Nước Lỗ sắp tế giao, nếu như đem phần thịt "phiên" cho Đại phu, thì ta còn có thể ở lại...

Sau nầy Hoàn Tử nhận nữ nhạc, luôn ba ngày không lo việc chánh, tế lễ giao lại không đưa phần thịt cho Đại phu, Khổng Tử liền đi, ở đêm nơi đất Đồn.

Sư Kỷ đưa mà nói rằng :
- Phu Tử chắc không trách...
Khổng Tử đáp :
- Bây giờ ta hát, có được không ? Hát rằng "Vì miệng mấy đứa con gái kia, có thể ra đi...cái êm ấm của mấy đứa con gái kia, vì đó mà chết...hư việc...việc vui chơi duy chỉ làm hết đời."

Sư Kỷ trở lại, Hoàn Tử hỏi :

- Khổng Tử có nói gì không ?
Sư Kỷ thưa lại sự thật.

Hoàn Tử thở ra than rằng :
- Phu Tử trách tội ta là vì mấy đứa nữ nhạc ấy chăng ?

(Chuyện nầy đều có chép trong sách Luận Ngữ và Mạnh Tử. Khi Hoàn Công nhận nữ nhạc là Khổng Tử đã quyết chí ra đi rồi. Nhưng không muốn nêu cái sai lầm của vua lên quá rõ, cho nên mới mượn cớ thiếu phần thịt, một chuyện nhỏ để ra đi.

Nhưng về chuyện nữ nhạc của nước Tề, một nhà học giả sau nầy là Thôi Thuật bảo là không đáng tin, trong sách Thù Tứ khảo tín lục đã biện luận thật rõ ràng. Thiên Hiến vấn trong sách Luận Ngữ có chép : Công Bá Liêu tố Tử Lộ với Quí Tôn, Tử Phục Cảnh Bá cho hay :

- Nếu Phu Tử có gì không đắc chí với Công Bá Liêu, thì tôi có thể giúp ở triều.

Khổng Tử đáp :

- Đạo làm được chăng ? Mạng vậy ! Đạo có bị phế chăng ? Mạng vậy ! Công Bá Liêu có ăn thua gì với mạng đâu !

Sở dĩ Khổng Tử có thể thi hành đạo mình với Quí Tôn, là nhờ Tử Lộ làm quan tể với họ Quí, được Hoàn Tử tín nhiệm...vì thế nếu tố Tử Lộ (học trò Khổng Tử) với Quí Tôn, tức ly gián Khổng Tử.

Quí Hoàn Tử đã bị nghi ngờ vì Công Bá Liêu, thì Tử Lộ không còn được tin dùng như trước, như thế Khổng Tử không thể không đi được.

Rồi nhơn kỳ tế Quân giao ơở tháng Dần [háng giêng ] Khổng Tử tìm cớ ra đi.)

Khổng Tử liền qua nước Vệ, ở nhà anh của Tử Lộ, nhà Nhan Thục Trâu.

Vệ Linh Công hỏi :

- Khổng Tử ở nước Lỗ, ăn lộc bao nhiêu ?

Có người đáp :

- Lúa lương 6 vạn.

Nước Vệ cũng cho lúa 6 vạn...(ở không bao lâu, có kẻ gièm Khổng Tử với Vệ Linh Công, Linh Công sai Công Tôn Giả nói ra nói vào, Khổng Tử sợ bị tội) ở 10 tháng liền bỏ nước Vệ ra đi...

(Nhan Thục Trâu tức Nhan Thùy Do vợ Di Tử Hà...

Khổng Tử bỏ nước Vệ ra đi là vì Linh Công lợt lạt, nếu bị gièm pha mà sợ tội thì tại sao ở đến 10 tháng mới ra đi ? Hơn nữa, không bao lâu ông lại trở về nước Vệ, như thế đoạn "ở không bao lâu...đến sợ bị tội" nằm trong 2 dấu ngoặc nên bỏ là hợp lý hơn).

Sắp qua nước Trần, đi ngang đất Khuôn, Nhan Cao theo hầu giơ tay chỉ nói rằng : "Ngày trước tôi có vào đây...

Người đất Khuôn nghe nói, ngỡ đó là DươngHổ của nước Lỗ...Vì Khổng Tử hình dáng giống Dương Hổ Dương Hổ thường tàn bạo với người Khuôn, người Khuôn liền ngăn Khổng Tử, 5 ngày Nhan Uyên đến...

Khổng Tử nói :
- Ta ngỡ rằng người đã chết !
Nhan Uyên đáp :
- Thầy còn, Hồi đâu dám chết ?
(Người Khuôn vày Khổng Tử càng gấp) đệ tử sợ, Khổng Tử bảo :

- Văn Vương đã mất...Bây giờ văn không còn ở đây sao ?Nếu trời muốn làm mất văn vẻ ấy, thì kẻ sau chết, không thể hưởng được nền văn vẻ ấy...Còn nếu như trời không muốn làm mất nền văn vẻ ấy, thì người Khuôn không làm gì ta được đâu !

(Khổng Tử khiến kẻ đi theo làm tôi cho Ninh Võ Tử ở nước Vệ, sau đó mới được đi).

(Đất Khuôn hiện nay là huyện Trường Viên ở phía Tây Nam tỉnh Hà Bắc. Câu "người Khuôn vây Khổng Tử càng gấp" dư, nên bỏ.

Lúc Khổng Tử đến nước Vệ là nhằm năm thứ 30 Vệ Linh Công, lúc đó Ninh Võ Tử đã chết, nên câu "Khổng Tử khiến kẻ đi theo...nên bỏ, có lẽ người sau lầm nên thêm vào).

Liền qua đất Bồ, hơn 1 tháng, trở lại nước Vệ, ở nhà Cừ Bá Ngọc, vợ vua Linh Công có bà Nam Tử, cho người đến nói với Khổng tử :

- Người quân tử bốn phương nếu không nhục làm bạn với quả quân tôi, thì cũng nên đến gặp quả tiểu quân".

Khổng Tử từ tạ, và bất đắc dĩ đến ra mắt.

Phu nhơn ở trong màn thưa, Khổng Tử bước vào, day mặt về hướng Bắc cuối đầu...Phu nhân ở trong màn đáp lễ, tiếng ngọc đeo trong mình vang lên.

Khổng Tử nói :

- Đáng lẽ tôi không đến, nhưng phu nhân đã gọi ra mắt, tôi phải đáp lễ.

Tử Lộ không vui, Khổng Tử thề rằng :

- Ta có điều gì sai quấy...Trời hại ta...Trời hại ta...

Ở nước Vệ hơn tháng, Linh Công và phu nhân ngồi chung xe, hoạn quan là Ung Cừ cũng ngồi...cùng đi ra, để Khổng Tử ngồi xe sau, rong qua chợ.

Khổng Tử nói :

- Ta chưa thấy ai hiếu đức như hiếu sắc.

Ông xấu hổ bỏ nước Vệ qua nước Tào.

(Câu chuyện Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử có chép trong thiên Ung Dã sách Luận Ngữ.

Chuyện Khổng Tử ra mắt Nam Tử, Tử Lộ không vui, Khổng Tử không nói rõ, tại sao mình đến mà chỉ thề thốt, như thế không ai hiểu được. Nhưng xét qua lời nói của sứ giả Nam Tử đến gặp Khổng Tử khi mới đến nước Vệ, ở tại đó độ 10 tháng, Nam Tử chưa gặp ông lần nào.

Lần nầy ở Vệ hơn mười tháng, nàng lại muốn gặp, đó là huyện không hợp tình hợp lý chút nào, có chỗ đáng nghi ngờ...Trong sách Luận Ngữ tập giải, theo lời Khổng An Quốc, cũng nghi ngờ chuyện nầy.

Có thuyết lại cho rằng, trong thời gian ở Vệ 10 tháng, Linh Công với Nam Tử đi xe trước, bảo Khổng Tử ngồi xe sau, ông buồn vì bị đối xử thiếu lễ nên ra đi).

Năm ấy Lỗ Định Công mất.

Khổng Tử qua nước Tào, nước Tống, cùng đệ tử giảng tập Lễ dưới cây to...Tư Mã nước Tống là Hoàn Đồi muốn giết Khổng Tử nên bứng cây...

Đệ tử bảo :"Bây giờ là lúc nên đi..."

Khổng Tử nói :

- Trời sanh đức nơi ta ! Hoàn Đồi làm gì ta được !

Khổng Tử qua nước Trịnh, cùng đệ tử lạc nhau. Khổng Tử đứng một mình ở cửa Đông nước Trịnh. Người nước Trịnh có kẻ bảo Tử Cống :

- Ở cửa Đông có người giống như vua Nghiêu, trán như Cao Dao, vai như Tử Sản, nhưng từ lưng trở xuống, ngắn hơn vua Võ 3 tấc...đứng bơ phờ như chó nhà có đám tang...

Tử Cốngnói lại sự thật cho Khổng Tử nghe. Khổng Tử cười nói :

- Hình trạng chưa chắc là như vậy. Nhưng như chó nhà có đám tang thì rất đúng, rất đúng !

(Trong đoạn nầy "bứng cây..." là không hợp lý, vì lúc đó Hoàn Đồi làm Tư Mã nước Tống, lại chuyên quyền, nếu muốn giết Khổng Tử là một chuyện dễ dàng. Bứng gốc cây mà làm gì ?).

Vua nước Ngô là Phù Sai đánh nước Trần, lấy 3 ấp rồi về...

Triệu Ưởng đánh Triều ca, Sở vây nước Thái, nước Đới sang Ngô, nước Ngô đánh bại vua Việt là Câu Tiển.

Có con chim bay đến sân nước Trần mà chết, có mũi tên xuyên ngang, nõ bằng đá, tên dài hơn thước...Vua Trần sai sứ đến hỏi Trọng Ni.

Trọng Ni đáp :

- Chim từ xa đến đây vậy ! Và đây là tên của Tiêu Thận.

Ngày xưa Võ vương đánh nhà Thương, thông đường 9 rợ, 8 man và khiến các nơi đem lễ vật đặc biệt của mình đến cống...để cho không quên nghề nghiệp.

Vì thế Tiêu Thận cống tên và nõ đá, tên dài hơn thước, vì Tiêu vương muốn làm tỏ đức lành của mình liền lấy tên của Tiêu Thận chia cho Thái Cơ, Ngu Hồ Công và phong cho đất Trần...

Chia cho những người đồng tánh châu ngọc, mở rộng thân thích...chia cho những người khác họ những chức phương xa, để cho không quên mến phục...vì thế mà chia tên của Tiêu Thận cho nước Trần...Liền tìm ở phủ xưa, quả thấy loại tên ấy.

(Chuyện nầy giống như chuyện Phần dương và xương của họ Phòng phong ở đoạn trước, mục đích để đề cao Khổng Tử là người hiểu rộng biết nhiều...và đây cũng là loại chuyện truyền thuyết).

Khổng Tử ở nước Trần 3 năm, gặp lúc Tấn, Sở tranh biên giới rồi lại đánh Trần, rồi Ngô xâm lấn Trần, nước Trần thường bị giặc cướp.

(Khổng Tử nói : Về vậy...về vậy, Tiên tử chúng ta điên cuồng, tiến thủ, không quên lúc ban đầu).

Vì thế, Khổng Tử bỏ nước Trần.

(Đoạn "Khổng Tử nói..." nằm trong 2 dấu ngoặc sắp lộn nên bỏ.)

Qua đất Bồ, họ Công thúc dựa vào đất Bồ làm phản. Người Bồ ngăn Khổng Tử, đệ tử có người tên Lương Nhụ dùng xe riêng 5 chiếc theo Khổng Tử, người nầy cao lớn, hiền, có dõng lực, nói rằng :

- Ta theo Phu Tử, gặp nạn ở đất Khuôn, nay lại gặp nạn ở đây, cũng là mạng mà thôi !

Ta với Phu Tử lại mắc nạn, thà là chiến đấu mà chết !

Đánh rất hăng, người Bồ sợ, nói với Khổng Tử :
- Nếu ông không qua Vệ, tôi để ông đi.
Cùng thề với nhau rồi ra cửa Đông, Khổng Tử liền qua Vệ.

Tử Cống hỏi :

-Lời thề có thể phụ chăng ?

Khổng Tử đáp :

- Nếu cần thề, thì thần không nghe !

Vệ Linh Công nghe Khổng Tử đến rất mừng nên ra tận bên ngoài đón tiếp và hỏi :

- Đất Bồ có thể đánh không ?

Đáp :

- Có Thể...

Linh Công nói :

- Đại phu tôi đều nói là không thể được. Vì đất Bồ, là Vệ dùng để chậm trễ Tấn và Sở, Vệ đánh Bồ có phải là không nên chăng ?

Khổng Tử nói :

- Số đàn ông con trai có chí chết, và số đàn bà có chí gìn giữ Tây Hà...chúng ta chỉ đánh bất quá chừng 4, 5 người mà thôi.

Linh Công nói :

- Hay lắm...

Nhưng không đánh Bồ.

Linh Công đã già...trễ nãi việc chánh, không dùng Khổng Tử.

Khổng Tử buồn than rằng :

- Nếu có kẻ dùng ta, chỉ một tháng mà thôi...Nếu

3 năm thì thành công...(Khổng Tử ra đi).

(Câu "Khổng Tử ra đi lầm lẫn, nên bỏ.)

Phật Hật làm quan Tể đất Trung Mâu, Triệu giản Tử đánh Phạm trung Hàng thị, đánh Trung Mâu,Phật Hật làm phản sai người đến rước Khổng Tử, Khổng Tử muốn đi.

Tử Lộ thưa :

- Do nầy có nghe Phu Tử nói "Người mà gần kẻ không lành, thì người quân tử không đến, bây giờ Phật Hật dựa đất Trung Mâu làm phản, thầy muốn đến là làm sao ?"

Khổng Tử đáp :

- Quả ta có nói lời ấy...nhưng ta cũng từng nói :"thật là cứng, mài cũng mòn, thật là trắng, nhuộm cũng đen", ta đâu phải là trái biều qua, cứ treo mà chẳng ăn ?

(Đất Trung Mâu hiện nay ở phía Tây huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam. Chuyện nầy có ghi trong Luận Ngữ, thiên Dương Hoá, nhưng theo Thù Tứ khảo tín lục, thì chuyện Phật Hật làm phản là dưới thời Triệu Tương Tử, mà lúc Tương Tử lên ngôi thì Khổng Tử đã mất 5 năm rồi...như thế làm sao có chuyện nầy được...đoạn nầy nên bỏ là hợp lý.

Hơn nữa, con người như Khổng Tử đâu có vì cái ăn mặc mà đi theo người bất chánh.)

Khổng Tử đánh cái khánh, có người vác nặng đi ngang qua cửa nói :

- Người đánh khánh, thật là có tâm vậy...không ai biết mình thì thôi vậy !

Khổng Tử học đàn với sư Nhượng 10 ngày mà chẳng tiến, sư Nhượng bảo :

- Có thể học thêm nữa.

Khổng Tử đáp :

- Khâu đã tập cái "khúc" nhưng chưa biết cái "số".

Giây lát sư Nhượng lại nói :

- Đã tập được cái "số" rồi, có thể học thêm...

Khổng Tử đáp :

- Khâu chưa nhận được cái "chí".

Giây lát sư Nhượng lại nói :

- Đã tập được cái "chí" rồi, có thể học thêm...

Giây lát sư Nhượng lại nói :

- Đã tập được cái "số" rồi, có thể học thêm...

Khổng Tử lại nói :

- Tôi chưa nhận được cái đạo làm người.

Giây lát, dường như có điều gì sáng lên và nghiêm trang nghĩ ngợi...rồi lại thơ thới nhìn lên cao mà có chí xa :

- Khâu đã nhận được cái đạo làm người...lờ mờ mà tối đen...gần mà như xa...mắt như nhìn biển rộng, tâm như làm vua 4 nước nếu không phải là Văn Vương thì ai làm được việc đó.

Sư Nhượng đúng dậy chắp tay xá bảo rằng :

- Phải rồi, đó là tiếng đàn của vua Văn Vương.

(Đoạn nầy muốn nói lên cái chí học tập chuyên cần của Khổng Tử...ông muốn tìm cái đạo trong tiếng đàn và nhận ra được tính chất của nhạc...)

Khổng Tử đã không đắc dụng ở Vệ, liền sắp sửa đi qua hướng Tây ra mắt Triệu giản Tử, đến sông Hà, nghe tin Đậu Minh và Thuấn Hoa chết, ông đứng bên sông Hà than :

- Đậu Minh và Thuấn Hoa là hiền đại phu của nước Tấn, lúc Triệu giản Tử chưa đắc chí, nhờ 2 người ấy mà bắt đầu việc chánh, nhung đến khi đắc chí rồi, thì giết những người ấy để làm việc chánh.

Khâu có nghe nói : Mổ thai giết trẻ con thì Kỳ Lân chẳng đến bờ cõi, tát đầm cạn cá thì giao long chẳng hợp âm dương, lật ổ phá trứng thời phụng hoàng chẳng bay.

Tại sao vậy ? Người quân tử kiêng việc hại đồng loại, vả lại điểu thú với việc bất nghĩa còn biết tránh, hà huống gì Khâu nầy ?

Bèn trở về Aáp Trâu, làm bài Trâu thao để ghi chuyện buồn ấy, rồi trở lại nước Vệ ở nhà Cừ Bá Ngọc.

*

Ngày nọ Linh Công hỏi việc binh.

Khổng Tử nói :

- Về chuyện cái trở, cái đậu, (tế, lễ) thì tôi thường nghe còn về chuyện binh thì tôi chưa học.

Ngày sau, cùng chuyện trò với Khổng Tử, thấy con chim Hồng, liền ngửng mặt nhìn, không hề chú ý đến Khổng Tử.

Khổng Tử liền ra đi, và lại qua nước Trần.

Mùa Hạ, Vệ Linh Công mất, lập cháu là Triếp, đó là Vệ Xuất Công.

Tháng 6, Triệu Ưởng đem thái tử Khoái Hội vào đất Thích, khiến thái tử để tang và 8 người mặc sô gai, giả vờ như rước từ nước Vệ về khóc mà vào rồi ở luôn.

Mùa Đông, nước Thái dời sang Châu Lai.

Năm ấy, nhằm năm thứ 3 Lỗ Ai Công, Khổng Tử được 60 tuổi, Tề giúp Vệ vây đánh Thích, vì sự có mặt của thái tử nước Vệ là Khoái Hội đang ở đó.

 
( còn tiếp )


 [  Trở Về  ]