Tổ
chức nền học chính Nam kỳ trước thời chinh phục chính
là tổ chức hiện nay tại phần nước An Nam do chúng ta bảo
hộ[1]. Các ông Luro và Vial đã
nghiên cứu vấn đề này qua nhiều tác phẩm được phổ biến
rộng rãi. Trong tài liệu giản lược này, chúng ta chỉ lược
qua mấy nét chính.
Thời
đó, mỗi làng có một trường tư (école libre) có thể
mở ra không cần xin phép và do một nhiêu-học [2]
điều hành. Tại trường, học sinh học lễ giáo và văn học
Trung quốc, các phép tính sơ đẳng và các loại chữ viết,
gọi là chữ-nho và chữ-nôm, chữ-nho là chữ Trung quốc thực
thụ, và chữ-nôm là chữ Trung quốc được dùng để phiên
âm tiếng An Nam phổ thông (annamite vulgaire). Tại mỗi
huyện [3] hay mỗi phủ có
một trường trung học, chương trình học cũng giống như chương
trình cấp một, nhưng nới rộng hơn.
Trường
được giao cho công chức, hay giáo viên tư chịu sự kiểm
tra của đại diện chính quyền. Đốc học điều hành trường
phải có bằng tấn sĩ hay ít ra cũng tú tài. [4]
Các
viên chức theo dõi kiểm tra họ là quan lại thuộc ngành học
chính, thanh tra tỉnh, do nhà vua bổ nhiệm.
Thường
thường ba tháng một lần, tất cả các trường học lại
tổ chức luận văn (composition) theo lệnh quan tổng đốc.
Sáu
tháng một lần tổ chức sát hạch thi cử do viên chức được
chỉ định tại mỗi tỉnh chủ tọa. Mục đích sát hạch
là để giữ vững trình độ học vấn và lòng tôn kính văn
học; cũng như để lựa chọn sĩ tử trong tỉnh gửi di dự
các kỳ thi tú tài hay cử nhân, tổ chức mỗi ba năm.
Đề
mục thi là một bài diễn giải kinh nghĩa (maxime) và
một bài luận văn (composition littéraire).
Học
sinh trúng tuyển có thể được thâu nhận vào các trường
đại tập tại kinh đô, được cấp dưỡng, theo học, nhắm
mục đích tối hậu dành được bằng cấp tiến sĩ. Chắc
cũng cần phải nhắc lại rằng những kẻ thi đỗ khi trở
về quê quán sẽ được rất trọng vọng. Sau cùng, đỉnh
cao của hệ thống này là Quốc tử giám (Académie nationale),
đặt dưới quyền quan Thượng thư Bộ Lễ, với chức năng
ghi chép biên niên sử (annales), điều hành ngành học
chính.
Ở
lớp cao, chương trình học chỉ quy vào văn học và lễ giáo
Trung Quốc. Phép tính toán và khoa học bị loại bỏ. Quan lại
nếu cần sẽ học các môn này ngoài vòng thi cử.
Việc
học của hoàng tộc được tổ chức theo một hệ thống riêng.
Ngay
khi đặt chân lên đất An Nam, để tiện việc truyền đạo,
các giáo sĩ đã dùng chữ viết La-tinh ghi lại âm điệu tiếng
nói bản xứ. Họ tạo ra chữ quốc ngữ và dựng trường
học gần nhà cha sứ (presbytère) của họ.
Do
đó ngày 17 tháng 2 năm 1859, khi đô đốc Rigault de Genouilly
chiếm Sài Gòn, ông đã gặp sẵn tại chỗ một trường chủng
viện và một trường học lấy tên trường Bá Đa Lộc (école
d'Adran) do các giáo sĩ Hội truyền giáo nước ngoài (Missions
étrangères) thành lập, Bá Đa Lộc là tên của vị giám
mục tạo dựng ra trường .
Tại
đây, dân bản xứ theo đạo Ca-tô học đọc và viết tiếng
nói An Nam bằng chữ mẫu La-tinh; họ được học tiếng La-tinh
đủ dùng để có thể giúp các giáo sĩ trong giáo sự, và
ngay cả trở thành giáo sĩ bản xứ để truyền đạo Ki-tô.
Người học đạo được học đôi ba chữ tiếng Pháp là chuyện
hiếm.
Các
đô đốc, tư lệnh tối cao quân đội viễn chinh, phải nhờ
Hội truyền giáo để có những thông ngôn đầu tiên cho quân
đội chiếm đóng. Trong giai đoạn chiến tranh chinh phục, các
vị tư lệnh không thể nghĩ đến việc tổ chức giáo dục,
và chỉ cấp một số học bổng, trích từ quỹ quân đội,
cho hai trường để đào tạo những phụ tá cần thiết, những
người, hầu hết, chỉ nói được một thứ tiếng La-tinh
bập bẹ.
Năm
1861, đô đốc Bonnard tăng số học bổng cho trường Bá Đa
Lộc .
Thí
sinh vào ngạch thông ngôn phải qua một kỳ sát hạch do nghị
định ngày 1 tháng 12 năm 1861 ấn định .
Vì
nhân số thông ngôn bản xứ không đáp ứng nhu cầu, một
trường dạy tiếng An Nam cho thông ngôn Pháp được thành lập
tại Sài Gòn, những người này sau đó trở thành các giáo
sư đầu tiên của trường. Nghị định ngày 8 tháng 5 năm
1862 của đô đốc Bonnard, ấn định quy chế của trường,
theo đó trường sẽ phải đào tạo các thông ngôn gốc Âu
xuất thân từ quân đội hay hải quân.
Sau
chín tháng đào tạo, các học viên thông ngôn phải qua một
kỳ thi tuyển, nếu đỗ sẽ được bổ nhiệm làm thông ngôn
phụ (aide-interprète), còn không sẽ được trả về quân
ngũ.
Trường
học này tổ chức chủ yếu vì lý do hành chính, không có
mục tiêu giáo dục.
Đào
tạo chỉ nhắm vài người theo đạo Ca-tô, các trường học
xưa đã bị đóng cửa từ hơn ba năm, dân bản xứ không còn
phương tiện nào để trau dồi đời sống văn hóa, tinh thần
cũng như đạo đức.
Đô
đốc Bonnard, sau một năm tại chỗ, đã sáng suốt nhận định
được những lợi ích có thể tạm thời rút ra từ hệ thống
hành chính bản xứ cũ, cho khôi phục hệ thống này dưới
quyền điều khiển của các sĩ quan quân đội chiếm đóng
với chức vụ chánh tham biện (inspecteur des affaires indigènes)[5],
và bao gồm việc tổ chức học chính (enseignement publique).
Nghị
định ngày 31 tháng 3 năm 1863 tái lập lại cách phân phối
trường học cũ và các chức đốc học, giáo thọ, huấn đạo,
phân định cấp bậc: học sanh, tú tài, cử nhơn [6],
thiết lập lại các khóa thi ba năm, khóa đầu tiên sẽ được
tổ chức vào năm 1864, và bổ nhiệm, bên cạnh viên chức
học chính bản xứ, các thông ngôn để dạy chữ quốc ngữ
(chữ viết La-tinh áp dụng vào tiếng An Nam).
Thông
thạo loại chữ viết này không bắt buộc, tuy nhiên trong các
kỳ thi, ưu tiên vẫn được dành cho các thí sinh biết thứ
chữ đó. Chi phí cho hệ thống tổ chức này được tài trợ,
phần do lợi tức của tỉnh , phần do lợi tức hàng tổng.
Cách
tổ chức này chỉ có thể dành cho những người bản xứ
muốn tham dự các kỳ thi; nó không giúp bao nhiêu cho việc
phổ biến thứ chữ viết bằng chữ mẫu Âu tây.
Ngày
18 tháng 7 năm 1864, đô đốc Lagrandière mở ra, tại các trung
tâm tỉnh lị chính, các trường tiểu học dùng chữ mẫu
Âu tây, và giao cho các thông ngôn, các thư ký đảm nhiệm
dạy học, hai giờ mỗi ngày. Những người này được lãnh
lương phụ trội thêm một franc mỗi ngày dạy học, và cứ
mỗi học sinh biết đọc và biết viết thì được thưởng
thêm 1 franc, 0,50 franc nếu chỉ biết đọc.
Tiền
học miễn phí; sách vở dụng cụ thông thường do nhà nước
cấp; trường học được đặt dưới sự kiểm soát của
các thanh tra, và phí tổn quản trị hoàn toàn do ngân sách
địa phương tài trợ (chương 1 điều 3).
Kết
quả không phải chờ lâu, và sau Hội chợ Triển lãm năm 1866
tại Sài Gòn, nghị định ngày 21 tháng 3 trao tặng ba mươi
hai bằng khen thưởng danh dự cho những học sinh có công trình
được trưng bày, cùng với tiền thưởng từ 5 đến 15 francs.
Cách
viết chữ theo Âu tây bắt đầu được biết tới phần nào,
nhưng tiếng Pháp không vì thế mà được phổ biến. Đô đốc
Lagrandière quyết định thành lập một trường Pháp tại Sài
Gòn, giao cho các tu sĩ theo đạo Ki-tô điều hành, và với
sự đồng thuận của Hội truyền giáo, được tổ chức ngay
trong trường Bá-đa-lộc. Nghị định ngày 1 tháng 2 năm 1866
chỉ định Ông Jaime, cha bề trên, làm hiệu trưởng trường
Pháp, và năm tu sĩ làm phụ tá.
Lương
bổng được quy định trong ngân sách địa phương; số học
bổng gia tăng; thể thức xin học bổng được quy định qua
nghị định ngày 31 tháng 7 năm 1866.
Kể
từ nay, việc dạy tiếng Pháp cho dân bản xứ bắt đầu bắt
rễ tại thuộc địa; nhưng hoàn toàn nằm trong tay các nhà
truyền giáo và tu sĩ đạo Ki-tô. Những vị này mau chóng mở
thêm các trường khác tại các trung tâm tỉnh lị quan trọng
nhất, Mỹ Tho, Chợ Lớn và Vĩnh Long. Học bổng thuộc địa
được cấp cho mỗi trường; tiền tài trợ sách vở dụng
cụ thông thường, tính mỗi đầu học sinh, được cấp 0,5
rồi 1 franc. (Các nghị định ngày 31 tháng 9 năm 1867, 6 tháng
11 năm 1868, 23 tháng 8 năm 1870, 28 tháng 4 năm 1871).
Trong
năm năm, trường học do tu sĩ điều hành và được chính
quyền thuộc địa tài trợ phát triển mạnh. Vào khoản thời
gian đó, hội đồng tư vấn được thành lập để giúp ý
kiến về các vấn đề giáo dục. Qua nghị quyết ngày 9 tháng
5 năm 1868 của hội đồng, trường chủng viện Sài Gòn sẽ
dạy tiếng Pháp tại các lớp cao đẳng, do đó sẽ nhận mỗi
năm một khoản tài trợ là 10 000 francs và việc điều hành
quản trị và giáo dục của trường sẽ chịu sự kiểm tra
của một ủy ban quản trị.
Qua
nghị định ngày 13 tháng 5, bổ túc ngày 3 tháng 6, đô đốc
Ohier cho thi hành nghị quyết trên và chỉ định một ủy ban
gồm năm người trong đó chỉ có hai người của chính quyến
không phải là tu sĩ. Ủy ban có trách nhiệm thanh tra chủng
viện ít nhất ba tháng một lần, và phúc trình kết quả lên
quan toàn quyền.
Kể
từ ngày 28 tháng sáu, trường Bá đa lộc (collège d'Adran)
được
phép thu nhận học sinh trước đó đã bắt đầu theo học
tại trường các tu sĩ dòng Seyne ( frères de la Seyne).
Những học sinh này, được đào tạo để trong tương lai điều
hành các trường học dưới quyền các bề trên của họ,
lãnh mỗi ngày 1 franc tài trợ tiền chi phí ăn mặc. Trường
La Sainte-Enfance, là trường duy nhất, từ ngày chiếm đóng,
được giao phó dạy dỗ nữ sinh và đã được cấp nhiều
học bổng, nay được tăng thêm một trăm học bổng. Hệ thống
giáo dục bản xứ đã thành hình.
Cùng
lúc đó, dân số người Âu tăng rất nhiều, các gia đình
mỗi ngày một thêm đông. Hội đồng tỉnh , vừa được tổ
chức lại năm 1867, trong một thỉnh cầu, xin mở một trường
riêng phi tôn giáo (laïque) cho con em những người Âu.
Đô đốc Lagrandière, ngày 10 tháng 2 năm 1868, ký một nghị
định thành lập một trường học tỉnh (école municipale)[7]
gồm học sinh ngoại trú, đặt dưới sự kiểm tra của Chánh
nội vụ (Directeur de l'intérieur), và sự kiểm tra trực
tiếp của chánh công an tỉnh (commissaire municipal). Đây
là bước đầu của nền học chính phi tôn giáo (enseignement
laïque).
Trường
học có ba phân ban:
1-Trường
tiểu học Âu châu (école primaire européenne) với một
lớp sơ đẳng (cours élémentaire) miễn phí và một lớp
cao đẳng (cours supérieur) có học phí. Chương trình học
là chương trình các trường tiểu học tại Pháp, cộng thêm
những khái niệm về lịch sử cổ đại và hiện đại, về
khoa học tự nhiên (sciences naturelles). Cha mẹ học sinh các
lớp cao đẳng có thể trả thêm tiền để cho con em học thêm
ngoại ngữ, tiếng La-tinh, Hy-lạp , v.v...;
2-Trường
thông ngôn Âu châu, trước đây mang tên trường trung học
An Nam (collège annamite): Trường này tiếp tục điều
hành như trước, nhưng được đặt dưới sự kiểm tra của
hiệu trưởng trường học tỉnh (directeur de l'institution
municipale) , vị này có trách nhiệm dạy tiếng Pháp cho
học viên thông ngôn. Các học viên được thâu nhận không
phân biệt quốc tịch;
3-Một
trường cho những người thành niên (adulte) bản xứ.
Mọi người sống tại địa phương (résident) [8]
cũng như mọi người bản xứ có thể theo học. Trường cấp
mười hai học bổng cho học viên ngoại trú. Chi phí trường
được tài trợ , phần do ngân sách địa phương, phần do
ngân sách tỉnh. Chính quyền cũng không quên quyền lợi quần
chúng, cố gắng tối đa tìm cách thay chữ nho bằng chữ viết
Âu. Đây là một tiến bộ thực sự, vào thời đó.
Hệ
thống giáo dục khởi đầu năm 1864 mỗi ngày mỗi phát triển.
Sắc lệnh ngày 22 tháng 3 năm 1867 giao cho ông Luro, chánh tham
biện (inspecteur des affaires indigènes), thanh tra các trường
tiểu học, đang nhanh chóng gia tăng số lượng, và mười lăm
ngày sau (7 tháng 5), một sắc lệnh mới quy định một kỳ
thi cho những người An Nam muốn vào ngạch giáo dục. Học
viên có lương bổng , chia làm hai hạng, và sau một khoá thực
tập được lĩnh chứng chỉ dạy học; áp dụng biện pháp
chuyển tiếp, những người đương tại chức phải dự thi
trong thời hạn hai tháng.
Chương
trình rất đơn giản, cho học viên hạng nhì ( 2e classe )
chỉ
gồm có biết đọc và viết chữ quốc ngữ, bốn phép tính
và vài khái niệm đo lường. Cho hạng nhất ( 1e classe )
phải làm thêm một bài dịch..
Các
trường cho người thành niên, với chương trình học gồm
học viết với chữ mẫu Âu tây, học những khái niệm cơ
bản của tiếng Pháp, lần lượt được mở ra tại Cần Thơ,
Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giuộc, Ích Thạnh
(đô đốc Ohier 17 thàng 2 năm 1869), học sinh trường tiểu
học có thể tham dự. Các trung tâm Long Hưng, Mỹ Thuận, Cù
lao Mây , Bò Hút, v.v... [9]
cũng mở trường tương tự trong tháng 11 cùng năm.
Có
trường dĩ nhiên cần phải có phương tiện điều hành. Ngày
5 tháng 6 năm 1868, một ủy ban do Đức Ông Miche chủ toạ,
trong đó có Ông Philastre đại diện chính quyền và là người
duy nhất không phải tu sĩ, được thành lập với chức năng
soạn thảo một quyển văn phạm và một quyển từ điển
giúp học sinh học tiếng Pháp. Việc soạn thảo đã khởi
công, và ngày 25 tháng 9 năm 1869 Ông Poteaux, thông ngôn hạng
nhất, được giao phó độc quyền phổ biến sách cho các trường
bản xứ.
Trước
đó một tháng, để khuyến khích tinh thần thi đua giữa các
trường học, chính quyến quyết định tổ chức ba tháng một
lần, trong mỗi sở tham biện (inspection), một kỳ thi
giữa học sinh trường tiểu học và học sinh các trường
đạo. Các giải thưởng bằng tiền bạc được trao cho những
học sinh giỏi nhất. Phần thưởng được tăng gấp đôi nếu
người lãnh thưởng có thể dịch một bài tiếng An Nam sang
tiếng Pháp và ngược lại.
Đó
là tình trạng nền học chính tại Nam Kỳ cho tới cuối năm
1870. Năm 1871, Sau khi chính phủ cộng hòa được thành lập
, và hòa bình trở lại [tại Pháp] [10],
guồng máy hành chính và học chính tại Nam kỳ có xu hướng
tự do chủ nghĩa hơn (libéral). Chính quyền địa phương không
muốn lệ thuộc vào hệ thống giáo dục của giáo hội nữa,
muốn tự mình tuyển chọn và đào tạo giáo viên. Hệ thống
học chính phi tôn giáo bắt đầu triển khai.
Ngày
10 tháng 7 năm 1871, đô đốc Dupré lấy ba quyết định quan
trọng. Ông thành lập một trường sư phạm thuộc địa bản
xứ (école normale coloniale indigène). Một trường tiểu
học được cho tùy thuộc trường này [11].
Hiệu trường và ba giáo sư phải có bằng cấp đại học,
một bằng nghiệp vụ (brevet de capacité) hay chức vụ
thông ngôn.
Ba
người phụ giáo bản xứ là giáo viên tiểu học hạng nhất
(instituteur
de 1 ère classe). Hạn tuổi để thâu nhận vào trường là
16 tuổi tối thiểu , 25 tuổi tối đa. 60 học sinh của trường
theo quy chế nội trú và hoàn toàn được chính quyền thuộc
địa chu cấp nuôi dưỡng ăn mặc. Chùa Barbet [12]
được giao cho trường làm cơ sở; mỗi thí sinh được nhận
vào trường lãnh 25 franc làm chi phí nhập trường.
Cùng
ngày, quan toàn quyền ký một nghị định thành lập một ủy
ban với trách nhiệm soạn thảo chương trình học cho trường
mới và soạn một quyển sách cho giáo viên. Một ủy ban kiểm
tra cũng được thành lập, trong đó đại diện giáo hội chỉ
gồm có một tu sĩ bề trên của các trường đạo.
Sau
hết, cùng ngày hôm đó, các giáo viên được chia thành ba
hạng; lương bổng cao hơn trước và cứ mỗi ngày dạy học
giáo viên được thêm 1 franc. Ngược lại, trình độ thi tốt
nghiệp được nâng lên khá cao, và chương trình thi nặng hơn
(nghị định ngày 31 tháng 7 năm 1871). Hai bằng cấp bản xứ
được quy định. Bằng sơ đẳng bắt buộc cho giáo viên hai
hạng thấp , và bằng cao đẳng cho giáo viên hạng 1. Nhiều
biện pháp, khích lệ và tài chính, được dành cho học viên
của trường sư phạm mới mở ( 22 tháng 8 năm 1872) với sĩ
số tăng thêm 20 người (1 tháng 10 năm 1872) , và để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc quản trị trường, một phần
ngân sách được ứng trước cho hiệu trưởng trường ( 3
tháng 5 năm 1873).
Tổ
chức dạy tiếng Pháp chưa được chú trọng đồng đều cho
dân chúng mọi địa hạt (arrondissement). Các thanh tra
là những người đầu tiên lên tiếng báo động tình trạng
này và xin cải tổ toàn bộ hệ thống. Dù hết lòng hết
sức cố gắng, các thư ký và thông ngôn được chỉ định
điều hành trường , vì quá nhiều việc, không thể chăm sóc
đầy đủ cho học sinh. Ngày 13 tháng 1 năm 1873, để thống
nhất tất cả các cơ cấu hiện hành, đô đốc Dupré chỉ
định một ủy ban đặc biệt với trách nhiệm soạn thảo
một đề án tổ chức hệ thống giáo dục cho Nam kỳ, nhất
là cho các trường các tỉnh miền trong, chương trình học,
sách học và phương pháp dạy áp dụng chung cho mọi trường.
Ủy
ban đã bỏ thỉ giờ nghiên cứu đế án khá lâu, và phải
chờ mưới tám tháng sau, ngày 17 tháng 11 năm 1874, đô đốc
Dupré mới ký nghị định tổ chức lại toàn bộ hệ thống
học chính . Nghị định công bố giáo dục công hoàn toàn
miễn phí và tự do, được quy định bởi những điều lệ
tổng quát hiện hành tại Pháp, được giao cho các giáo sư
có đầy đủ điều kiện về chức vị, bằng cấp và bảo
đảm khả năng theo điều luật năm 1850.
Nền
học chính được đặt dưới quyền trực tiếp của Chánh
nội vụ (Directeur de l'intérieur), và sự kiểm tra trường
trại trong địa hạt thuộc trách nhiệm của viên chức cai
trị hạt (administrateur).
Thêm
váo đó, một ủy ban thường trực gồm đại diện chính quyền,
đại diện trường công phi tôn giáo, và đại diện trường
đạo, có nhiệm vụ theo dõi sự điều hành của hệ thống
học chính , nghiên cứu cách cải thiện hay những sửa đổi
cần thiết, và đề nghị lên cấp chính quyền cao hơn. Các
trường học chữ nho tại các làng bị hủy bỏ, hay đúng
hơn bị gom về các thị xã để biến thành các trường học
chữ mẫu La-tinh. Tại sáu trung tâm thị xã lớn nhất Nam kỳ
, Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre và Sóc Trăng,
mỗi nơi có một trường Pháp. Nhân viên các trường này gồm
một hiệu trưởng người Pháp, nếu có thể có bằng cấp
đại học, và biết nói tiếng An Nam, và các giáo viên biết
nói tiếng Pháp.
Học
sinh theo quy chế nội trú, phí tổn ăn mặc được chính quyền
thuộc địa tài trợ 10 francs một người mỗi tháng. Trường
có thể thu nhận, không giới hạn , các học sinh tự do ngoại
trú. Một bản điều lệ giản lược được áp đặt cho các
trường; nó quy định một hệ thống kỷ luật, một bảng
danh dự , v.v... Sau ba năm học, học sinh phải qua một kỳ
thi ra trường. Những học sinh trung bình, được công nhận
đủ khả năng lãnh một chức vụ thấp trong cơ quan hành chánh,
có thể được thu nhận vào làm việc , với lương bổng 360
francs một năm. Những học sinh xềp hạng cao tiếp tục theo
học tại trường trung học bản xứ (collège indigène) được
thành lập thay thế trường sư phạm bản xứ (école normale
indigène). Trường này sẽ phải đón nhận 120 học sinh
nội trú, có học bổng thuộc địa, mỗi người được lãnh
20 francs khi nhập trường, dành cho phí tổn ăn ở.
Nhân
viên trường gồm một hiệu trưởng và nhiều giáo sư người
Âu, và nhiều giáo viên bản xứ hạng nhất phụ tá. Chương
trình học ba năm, mỗi cuối năm có một kỳ thi, ai không đủ
sức thì bị đuổi. Chương trình dạy tiếng Pháp khá cao và
nhắm luyện thi bằng cao đẳng tiểu học (brevet supérieur)
là bằng bắt buộc phải có để làm việc trong hành chính
hay ra dạy học.
Dù
thành phần đại diện giáo hội khá đông trong ủy ban , nhưng
các tu sĩ trong hội truyền giáo không thỏa mãn với giải
pháp được đề ra, đưa đến tranh cãi gay gắt giữa họ
và nhân viên chính quyền, và khiến thống sứ phải can thiệp.
Khoản
chi phí dành cho giáo dục được ghi vào ngân sách 1875 là khoảng
200 000 francs (Số tiền này bao gồm hai học bổng cho trường
Taberd, do giáo sĩ Kerlan của Hội truyền giáo điều hành. Học
bổng này, lần đầu tiên được nói tới, dành cho con em công
chức người Pháp).
Hai
năm sau, trường trung học bản xứ rời sang cơ sở vừa được
xây dựng [13]
và lấy tên là trường trung học Chasseloup-Laubat
.
Nghị định ngày 6 tháng 1 năm 1876 ấn định cho học sinh một
số tiền nhập trường là 15 francs và mỗi tháng một số
tiền tương tự để chi tiêu ăn mặc. Những biện pháp này
đã nâng trình độ trường lên; khả năng nghề nghiệp nhân
viên bản xứ cũng cần được nâng cao hơn và để khiến
họ phải cố gắng đạt mục tiêu đó, một quy chế mới
về xếp hạng, thăng cấp cần được quy định. Chức vụ
giáo sư bản xứ được quy định (7 tháng 2 năm 1876), với
những thể lệ thi cử mới. Những thể lệ thi cử này đòi
hỏi một một kiến thức khá toàn diện, một cố gắng học
hỏi nặng hơn, nhưng để đền bù người bản xứ được
hưởng những quyền lợi tương xứng.
Thanh
tra các trường học được giao cho một ủy viên cấp cao nha
học chính. Vị này được miễn mọi bưu phí, thư từ và
điện tín, cho các trao đổi liên quan đến nhiệm vụ này.
Mỗi ba tháng, vị này phải nhận được các tài liệu phúc
trình. Khởi đầu triển khai tổ chức tất cả mọi cơ cấu
điều hành vật chất kỹ thuật liên quan đến trường học
còn nằm trong tay các viên chức hành chính được giao lại
cho thanh tra học chính.
Chẳng
bao lâu, những biện pháp này không đáp ứng nổi nhu cầu
tổ chức hành chính ngày mỗi nặng. Số học sinh của trường
trung học gia tăng rất cao, các trường tiểu học do người
Pháp điều hành cũng nhân lên theo tỷ lệ. Cần phải có những
biện pháp mới. Vấn đề được đưa lên ủy ban cấp cao,
và, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng , ủy ban trình lên Thống
sứ chuẩn đô đốc Laffont một bản sơ thảo để ký , trở
thành nghị định tổ chức (arrêté organique) 17 tháng
3 năm 1879. Nghị định này bắt đầu được áp dụng vào
năm 1880, và , trừ vài sửa đổi nhỏ, quy định cho đến
ngày hôm nay tổ chức học chính .
Hệ
thống học chính được chia làm ba cấp, gần tương đương
với hệ thống các trường sơ đẳng tiểu học, và các trường
cao đẳng tiểu học với chương trình nới rộng. Ở cấp
thứ nhất, chỉ có chương trình sơ học tiếng Pháp, nghĩa
là sau ba năm học trẻ em phải nghe và viết được vài câu
đơn giản, trả lời những câu hỏi thông thường bằng tiếng
Pháp, đọc được một trang sách sơ đẳng, và biết bốn
phép tính.
Cấp
thứ hai nới rộng chương trình chủ yếu về tiếng Pháp,
và các bộ môn áp dụng của số học và hình học.
Cuối
cùng, cấp thứ ba nới rộng hơn nữa chương trình học tiếng
Pháp và thêm các khái niệm cơ bản của khoa học vật lý,
khoa toán và khoa học tự nhiên; trong chương trình không có
sử học, ngay cả sử xứ Nam kỳ.
Khuôn
khổ tổ chức (cadre), cấp bậc (hiérarchie), phương
thức thăng chức của nhân viên Âu và bản xứ được quy
định. Tổ chức học chính được giao cho một giám đốc
nha học chính đặt dưới quyền quản trị của Chánh nội
vụ, và nếu cần lấy một biện pháp nào thì phải trình
lên một ủy ban thường trực cấp cao. Từ đây, nền giáo
dục công bắt đầu phát triển. Các trường Pháp mỗi ngày
một đông học sinh, phạm vi hoạt động của nhân viên mở
rộng theo đà phát triển. Trường Trung học Mỹ Tho được
thành lập qua nghị định của Ông Le Myre de Vilers (1880). Các
trường tổng (écoles cantonales) được mở ra để phổ
biến nhanh chóng chữ viết An Nam bằng mẫu chữ Pháp. Việc
thanh tra các trường này được giao cho một viên chánh thông
ngôn người Âu.
Các
trường của tu sĩ đạo ki-tô, dù còn được chính quyền
thuộc địa trợ giúp qua các học bổng cấp phát rộng rãi
cho học sinh, vẫn theo nhau đóng cửa tại Mỹ Tho và Vĩnh Long
(1881). Năm 1883, các tu sĩ từ bỏ luôn cả trường Trung học
Bá đa lộc. Giáo dục thuộc địa cho trẻ em phái nam hoàn
toàn trở nên phi tôn giáo (laïque) và việc thanh tra tất
cả các trường được giao cho một nhân viên nhà nước người
Âu đã qua một kỳ thi tốt nghiệp. Ba trường trung học cấp
hai được đặt dưới quyền trực tiếp của giám đốc nha
học chính, ba trường đạo giữ quy chế độc lập : trường
Taberd tại Sài Gòn, các chủng viện tại Cù lao Giêng và Sài
Gòn.
Cũng
cần phải nhắc đến các trường sơ đẳng do Hội truyền
giáo mở trong các giáo xứ, gần nơi cư trú của giáo sĩ.
Trong các trường này, trẻ em chỉ học đọc và đọc kinh.
Không đầy một phần mười học được dăm ba chữ tiếng
Pháp. Trợ cấp cho trẻ em phái nam các trường đạo hầu hết
bị bãi bỏ. Chỉ có học bổng cho học sinh trường Taberd
còn được cấp, và phải đợi hai năm sau, để trả công
cho trường đạo nhỏ các tỉnh phía trong, về việc truyền
bá chữ viết theo chữ mẫu La-tinh, một số tiền trợ cấp
khoảng từ 5000 tới 6000 francs được tái lập lại cho Hội
truyền giáo.
Nền
giáo dục thuộc địa phát triển; số học sinh ghi tên học
tăng rất cao. Nhiều trường phụ được thiết lập bên cạnh
ba trường trung học lớn. Thí sinh ghi tên thi các bằng cấp
bản xứ càng ngày càng đông. Sự tăng trưởng này được
khuyến khích qua những biện pháp hạ thấp trình độ thi cử
và giới hạn tuổi, xu hướng chú trọng lượng hơn là phẩm.
Cũng phải công nhận là việc phát triển hệ thống đường
làng xã, các công ty độc quyền (régie), chính sách thuế
trực thu (contributions directes) và những yêu cầu dồn
dập của cơ quan hành chính Bắc kỳ, khiến phải đào tạo
nhiều và nhanh. Trong năm 1884 và 1885, nhiều trường mới được
giao cho người Âu. Năm 1885, Tây Ninh và Gò Công có được
trường ngoại trú. Năm 1886, Sa Đéc mở trường. Năm 1887,
ba thanh tra thay phiên nhau đi các trường và số giáo sư Âu
được định là 80 người. Con số này bị giảm đi ngay sau
đó. Vào kỳ nhập học 1888, Thủ Đầu Một, Bà Rịa, Cần
Thơ mở trường tiểu học do giáo sư Pháp điều hành.
Mỗi
trường có khoảng một trăm học sinh, tám phần mười theo
học chăm chỉ. hai trường khác, Châu Đốc và Cái Bè, được
mở tháng 1 năm 1889, và hai trường nữa nằm trong dự án xây
cất của ngân sách cùng năm. Dù có nhiều mò mẫm và do dự,
việc truyền bá chữ Pháp phát triển trong chiếu hướng tốt.
Kết quả có lẽ sẽ còn cao hơn rất nhiều nếu ngay từ đầu
và trong thời gian vừa qua, kinh nghiệm hiểu biết về bản
xứ được xem trọng trong công cuộc tổ chức hệ thống học
chính. Đánh giá những biện pháp thời tạo dựng Đông Dương
không phải là việc của chúng ta; chúng ta chỉ có thể liệt
kê và nhận định các kết quả, đứng về mặt học chính.
Đầu
tháng 1 năm 1888, nha học chính (direction de l'enseignement)
bị bãi bỏ, quyền hạn của giám đốc được phân phối
cho nhiều người, nhưng trong thực tế sự phân định không
được rõ rệt chính xác.
Nghị
định ngày 15 tháng 1 năm 1888 đặt các trường các tỉnh dưới
quyền điều khiển trực tiếp của viên chức cai trị địa
phương, và các trường trung học tại Sài Gòn dưới quyền
Chánh thư ký (Secrétaire général) Nam kỳ. Ít lâu sau,
một nghị định bổ nhiệm hiệu trưởng trường Chasseloup
Laubat làm giáo sư-cố vấn (professeur conseil); sau cùng, một
nghị định quy định tiền phụ cấp cho trưởng phòng 3 của
cơ quan địa phương tổ chức việc học chính. Không có một
tài liệu nào phối hợp tất cả các biện pháp kể trên,
do đó nhiều điều luật chủ yếu của nghị định tổ chức
ngày 17 thàng 5 năm 1879 xem như bị hủy bỏ.
Phòng
3 (3e bureau) điều hành hầu hết guồng máy tổ chức
học chính, đề nghị thăng thưởng nhân viên và quyết định
phân phối một phần những vật dụng thông thường; về mặt
vật chất và hành chính như vậy tạm xem là hoàn tất.
Phần
chuyên môn lẽ ra thuộc quyền hạn của giáo sư cố vấn (professeur-conseil).
Nhưng những quyền hạn này chưa bao giờ được quy định
rõ ràng, do đó viên chức này không thể lấy bất cứ một
sáng kiến nào. Vị này không có quyền liên lạc trực tiếp
với các giáo sư phái về các tỉnh, cũng như các viên chức
cai trị hành chính. Quyền lực không đủ rõ rệt để được
thông tin về những biện pháp được áp dụng tại các trường
tỉnh, vị này không thể ra lệnh, và ngay cả cho ý kiến cố
vấn về chuyên môn, cho các hiệu trưởng các trường. Ông
ta chỉ có thể cho ý kiến khi chính quyền trung ương đưa
ra câu hỏi. Ngoài ra, ông ta cũng còn trách nhiệm phân phối
một phần các dụng cụ thông thường của nhà trường, đặc
biệt là sách học. Chức vị thanh tra các trường đã bị
bãi năm 1888, cùng lúc với chức vị giám đốc nha học chính.
Nghị
định ngày 17 tháng 3 năm 1879 đã quy định một ủy ban cấp
cao học chính. Thành phần ủy ban được quy định lại nhiều
lần. Ủy ban do Chánh nội vụ (Directeur de l'intérieur)
chủ tọa. Từ hơn hai năm nay ủy ban không được triệu tập.
Nhân
số người Âu đã bị giảm nhiều đợt; thay vì 72 nhân viên,
nhân số bây giờ chỉ còn 61, trong đó 21 đang nghỉ phép bên
Pháp và 5 được biệt phái đi các cơ quan khác. Tất cả chỉ
còn 34 nhân viên học chính lo điều hành và giảng dạy tại
các trường thuộc địa. Việc điều hành học chính không
còn được đảm bảo. Trong năm 1888 và 1889, các trường 200
học sinh chỉ được một giáo sư; các trường có hơn 200
học sinh chỉ được 2 giáo sư, và trường trung học Mỹ Tho,
bao gồm cả trường phụ thuộc, chỉ có được một hiệu
trưởng và 3 giáo sư. Hai trường do người Pháp điều hành
phải chuyển lại cho giáo viên An Nam.
Các
nhân viên phụ tá bản xứ tìm cách rời bỏ ngành học chính
vì tình trạng thăng thưởng, trước đây vốn rất chậm và
rất khó, giờ lại còn chậm hơn khi cấp trên trực tiếp
và chuyên môn của họ, người có thể đề nghị việc thăng
thưởng, có khả năng chuyên môn để bảo vệ quyền lợi
họ, bị bãi chức. Họ tìm trong các cơ quan hành chính địa
phương hay ở Bắc kỳ những công việc lương cao hơn. Những
kẻ thành công tìm được đường ra đi không phải là những
người yếu kém nhất, vì trong nghề nghiệp thông ngôn hay
thư ký, họ là những người có nhiều khả năng giúp việc
hơn là những kẻ tầm thường.
Hiệu
trưởng các trường trung học hay tiểu học, không hướng
dẫn chuyên môn, không thanh tra học chính, vẫn làm tròn nhiệm
vụ và lôi cuốn được đông đảo học sinh tới trường.
Chương
trình học không còn được rõ ràng chính xác nữa. Những
chương trình quy định năm 1879, theo lẽ còn hiệu lực, đã
bị bãi bỏ theo lệnh các giám đốc nha học chính vì các
chương trình này bao gồm một phần đầu sơ học chủ yều
dạy bằng chữ quốc ngữ, nhưng chúng cũng chưa dứt khoát
được thay thế. Những chương trình do các giám đốc học
chính soạn ra và được áp dụng khi các vị này còn tại
chức, nay bị rơi vào quên lãng tại nhiều trường, vì chúng
chưa bao giờ thực sự trở nên bắt buộc bằng biện pháp
hành chính.
Gần
đây, hiệu trưởng một trong những trường quan trọng đã
nêu lên tình trạng này và có một điều chắc chắn là, dù
có nhiệt tình, nhiều hiệu trưởng chỉ chú tâm lo cho các
lớp đạt kết quả dễ thấy, bỏ bê các lớp khác, và như
vậy đi ngược lại mục đích chính của giáo dục, hy sinh
tương lai lâu dài cho kết quả nhất thời.
Nhắc
đi nhắc lại tình trạng này chẳng ích gì hơn, ai cũng thấy
mọi điều bất lợi. Lần tìm ra manh mối đích thực chẳng
khó khăn gì; vì, tuy tình trạng của nền học chính trước
năm 1888 có vẻ tốt đẹp , điều chắc chắn là kết quả
, dù xuất sắc về lượng, vẫn còn có thể tốt đẹp hơn
nhiều. Những nguyên do chính của tình trạng này là vì việc
điều hành học chính được giao cho hai nhân vật tên tuổi
thuộc hai địa hạt chuyên môn khác xa nhau trong tổ chức hành
chính tại Pháp, một vị của học chính cấp đại học, một
của cấp tiểu học. Cả hai vị từ Pháp qua mang theo một
chương trình soạn sẵn, không đếm xỉa gì đến bối cảnh
sinh hoạt, phong tục tập quán, đến cá tính của người An
Nam, đến nhu cầu của địa phương. Cả hai đã gặp nhau và
đồng thuận cấm dùng tiếng bản xứ trong trường học, ngay
cả cho trẻ em mới cắp sách đến trường.
Khó
có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp, không biết một
chữ tiếng An Nam, bị buộc phải giảng dạy cho 40 hay 50 trẻ
em không biết một chữ tiếng Pháp, lại còn cấm không được
nhờ một ai làm trung gian trợ giúp. Phương thức này có thể
giúp thu lượm được vài kết quả cá nhân hiếm hoi nhưng
lại làm mất thì giờ cho cả lớp. Mục tiêu của giáo dục
như vậy là thất bại.
Với
hệ thống này, để cho số thí sinh không bị sút so với những
năm trước, trình độ thi cử đã phải hạ thấp cho dễ hơn,
và hậu quả là phải nhận cho đỗ bằng cao đẳng (brevet)
những học sinh chỉ vừa xít xoát đủ sức làm bài luận
văn trình độ năm thứ nhất lớp cao đẳng bản xứ.
Nhìn
từ khía cạnh nào đi nữa, điều chắc chắn là nha học chính
phải được thành lập lại và giao cho một người , vừa
có khả năng chuyên môn, vừa có kinh nghiệm sống điạ phương,
hiểu biết người An Nam, phong tục tập quán và cá tính của
họ. Kinh nghiệm trên đã chứng minh rằng một vị giáo sư
tu từ học (professeur de rhétorique) hay giáo sư đại học
xuất sắc bên Pháp và một hiệu trưởng giỏi của trường
sư phạm, không thể điều hành một cơ quan trong một xứ
hoàn toàn khác biệt về phong tục và tiếng nói. Đó là kết
luận của Hội đồng thuộc địa (Conseil colonial) và
Ông Chánh thanh tra Bideault qua lần thanh tra thuộc địa cuối.
Các cơ quan cấp cao của Chính quyền , thấy rõ tình trạng
yếu kém của hệ thống học chính, trong khi chuẩn bị ngân
sách, đã dự liệu bổ nhiệm lại một Giám đốc nha học
chính.
Có
lẽ cũng nên tái lập lại ủy ban cấp cao học chính và mời
vào ủy ban các người đại diện chính quyền trung ương,
đại diện chính quyền tỉnh, những nhân viên thuộc ngành
giáo dục, những nhân vật tên tuổi người Pháp và vài cựu
công chức bản xứ. Ủy ban này, gồm những người biết rõ
nhu cầu bản xứ, có thể giúp ý kiến cho giám đốc nha học
chính.
Ngay
từ đầu, giám đốc nha học chính cũng như ủy ban cấp cao
cần phải lưu tâm đến nền móng của hệ thống, là tổ
chức các trường học gần các gia đình , tức là các trường
hàng tổng (écoles cantonales). Được thành lập từ năm
1881, các trường hàng tổng đã phát triển mạnh về cơ sở
vật chất nhưng về chuyên môn giáo dục vẫn còn chưa được
chú trọng. Phải làm cho chúng trở nên thực sự là trường
cấp 1 (1er degré) theo quy định của nghị định 1879.
Phải
soạn cho các trường một chương trình học với mục đích
truyền cho người bản xứ, qua ngôn ngữ của họ, những khái
niệm cơ bản cần thiết để sống và tuân theo thể chế
do mục tiêu đã được vạch ra và bắt họ phải theo từ
ngày chiếm đóng, mục tiêu do nhà nước Cộng Hòa Pháp định
ra: văn hóa của dân tộc bị thống trị và sự truyền bá
của tư tưởng và tiếng Pháp. Chương trình này có thể sẽ
phải như sau :
1.
Tập đọc và tập viết ( quốc ngữ, và tập phát âm tiếng
Pháp). Ám tả bằng chữ quốc ngữ. Giảng văn bằng chữ quốc
ngữ, dịch những chữ thường dùng sang tiếng Pháp, các chữ
đã dịch được đọc lên, rồi viết lên bảng và viết lại
dưới hình thức ám tả;
2.
Tính nhẩm bằng quốc ngữ, tập đếm bằng tiếng An Nam và
bằng tiếng Pháp, các phép cộng, trừ, nhân, chia bằng tiếng
An Nam và bằng tiếng Pháp. Khái niệm hệ thống đo lường
mét bằng quốc ngữ và bằng tiếng Pháp, đo chiều dài, đo
diện tích, đo khối lượng đơn giản bằng tiếng An Nam và
bằng tiến Pháp. Các bài toán áp dụng , trình độ dễ. So
sánh hệ thống đo lường bản xứ và hệ thống đo lường
Pháp. Các bài tính lãi xuất đơn giản.
3.
Khoa học tự nhiên trên những đề tài thực tiễn và phù
hợp với bản xứ , bằng tiếng An Nam. Những chữ thường
dùng quan trọng sẽ được dịch sang tiếng Pháp để cho trẻ
em thu tập, chậm nhưng chắc chắn, một vốn từ ngữ rất
thực tiễn.
4.
Vài khái niệm về sử xứ An Nam
5.
Địa dư xứ Đông Dương
6.
Chữ Nho.
Thời
gian học là 3 hay 4 năm, tùy theo tuổi trẻ em (từ 8 đến 12
tuổi).
Hiệu
trưởng trường địa hạt (école d'arrondissement), luôn
luôn phải là người Âu, sẽ thanh tra các trường này. Vị
này lựa chọn trong số những học trò giỏi nhất thuộc lớp
năm thứ 3 và năm thứ 4 của trường hàng tổng, để mỗi
năm có thể lập thành lớp đầu tiên của trường Pháp tại
thị xã của địa hạt, 20 tới 25 học sinh chẳng hạn. Những
học sinh xem ra không đủ sức tiếp tục học lên phải đem
trả về gia đình một khi đã biết đọc, biết viết, biết
tính toán bằng tiếng bản xứ và có một vốn nhỏ các từ
ngữ thực tiễn bằng tiếng Pháp.
Các
trường cấp 1 này thuộc quyền quản trị trực tiếp của
chánh tham biện (chef d'arrondissement). Hệ thống này đã
được nhiều chánh tham biện tán thành; nó vẫn còn được
áp dụng trong vài địa hạt , và nói chung cho đến ngày hôm
nay không thấy cơ quan hành chính tỉnh có điều gì phiền
trách.
Điều
duy nhất có thể đáng lo : đó là trình độ hiểu biết quá
yếu kém của số đông giáo viên trường hàng tổng. Mối
lo này, cho đến ngày hôm nay, có vẻ có căn cứ vì ta cứ
nghĩ trường hàng tổng hay trường làng phải là một loại
trường Pháp giống như các trường địa hạt. Thực ra, vẫn
có thể tính rằng, trong giới hạn vai trò dành cho giáo viên
trường hàng tổng, một giáo viên kém, được hướng dẫn
khéo, được kiểm soát chặt chẽ và được thanh tra đều
đặn có thể đạt được kết quả mong đợi.
Cao
hơn các trường hàng tổng là trường địa hạt, được giao
cho giáo sư người Pháp, như đã nói ở trên . Chương trình
của các trường này phải là chương trình do nghị định
1879 quy định cho các trường cấp 2 (2e degré). Bàn vào
chi tiết sợ quá dài trong khuôn khổ bài viết này, việc phân
chia chương trình trong ba năm học là việc của giám đốc
nha học chính và ủy ban cấp cao. Ngày nay, số học sinh các
trường này đã giảm đi khá nhiều do hệ thống tổ chức
và các biện pháp về giáo dục sơ học đã được nói tới
ở trên. Hơn nữa, cấp học này kết thúc bằng một kỳ thi
lấy chứng chỉ học lực (certificat d'études) .
Có
lẽ cũng phải xét xem có nên đưa vào chương trình một số
kiến thức sơ khởi của ngành học nghề và nghề nông . Tại
xứ này, thành kiến với công việc tay chân còn sâu đậm
hơn bên Âu châu và một học sinh khi bước chân ra khỏi làng
là suy tính phải trở thành công chức và ngay cả cha mẹ cũng
chỉ mong có vậy ; trở về để cày ruộng hay làm nghề tay
chân là một cái nhục. Ngay từ tuổi ấu thơ, phải cho trẻ
em hiểu rằng cuốc đất hay đục đẽo cũng chẳng hèn kém
gì hơn cầm bút.
Hơn
nữa , ta cũng có thể tìm hiểu rõ hơn năng khiếu của mỗi
trẻ em vào cỡ tuổi 12 hay 13, và hướng dẫn chúng về một
trong những ngành học nghề chuyên môn, hệ thống học nghề
này có thể là kết cục hoàn mãn cho hệ thống giáo dục
dịa phương của chúng ta.
Những
ngành học này, tùy theo nhu cầu của ngân khố, có thể tập
trung vào một cơ sở duy nhất, hoặc rải ra các trường trại
chuyên môn khác nhau. Giải pháp thứ nhất có lẽ hay hơn, nhất
là đứng về mặt ngân sách, vì nhiều ngành khác nhau có thể
cùng học chung một số bài giảng, và có chung nhiều giáo
sư. Các ngành nghề chuyên môn có thể là
1.
lớp dạy kỹ thuật chuyên môn hay nghề nông,
2.
lớp chuẩn bị cho ngành nghề giáo dục;
3.
lớp chuẩn bị trở thành nhân viên hành chính tại Nam kỳ
và ngay cả cho toàn cõi Đông Dương vốn sẽ còn cần sự
trợ giúp của chúng ta về nhân sự trong thời gian khá lâu
nữa.
Để
đạt mục tiêu này, chỉ cần sửa đổi nhẹ bớt chương
trình cấp 3 (3e degré) của nghị định 1879, và thí sinh
phải qua một kỳ thi rất nghiêm túc. Số học viên được
thu nhận phải rất giới hạn. Ủy ban cấp cao sẽ nghiên cứu
trong chi tiết phương cách áp dụng dựa trên các đề án được
trình lên sau này.
Có
thể tổ chức ngay trong trường cấp 3 một phân ban đặc biệt
cho con em người Pháp và trẻ em lai, giống như tại trường
trung học Alger (lycée) và các trường trung học (collège)
bên Algérie, Tunisie, Ấn độ v.v... Con em dân thuộc địa có
thể theo học dễ dàng các lớp Pháp văn; chỉ có nhà ngủ,
nhà ăn, phòng học là riêng rẽ. Chuyện này chẳng có gì để
bàn cãi nhiều, vì thực ra đã được áp dụng tại thuộc
địa, con em người Âu trước nay vẫn theo học trường Sài
Gòn và trường Taberd trong đó đa số học sinh là người lai
hay người An Nam. Những trường này lại còn được cơ quan
hành chính sở tại tài trợ hậu hĩnh qua việc cấp học bổng.
Với phương thức trên, học phí có thể bớt đi (nên nhớ
- Một học bổng cho trẻ em lai tốn 720 francs nếu theo học
tại trường Taberd, khoảng 250 francs tại trường trung học
thuộc địa.)
Trong
bài khảo luận nhỏ này, ta không thể đi quá sâu vào chi tiết;
kinh nghiệm ngành học chính nhắc lại ở đầu bài giúp ta
chuẩn bị tương lai; chính lịch sử và kinh nghiệm đã đưa
đến hệ thống vừa được trình bày ngắn gọn ở trên.
Hệ thống này có gây tốn kém hơn cho ngân sách hay không ?
có lẽ không, và ngược lại chi phí có khả năng giảm đi
vì số học bổng sẽ dần dà bớt đi. Hiện nay, số học
bổng cấp cho sang Pháp hay cho theo học tại các trường công
hay tư quá nhiều, tiền học bổng cho trẻ em chưa biết đọc
ngang với tiền học bổng cho học sinh sắp ra trường, không
khác biệt. Các lớp học sơ đẳng đã được đưa đến gần
các gia đình, số học bổng sẽ giảm đi nhiều tại các trường
địa hạt, đa số là trường ngoại trú.
Cũng
cần lưu ý là học sinh các trường này không ở lại học
lâu trong trường, và một phần lớn các chi tiêu sẽ không
đưa đến kết quả mong đợi, rất nhiều học sinh rời trường
ngay sau khi biết đọc, biết viết và biết đếm.
Nhân
viên người Âu hiện nay đủ dùng về số lượng cũng như
khả năng.
Nhân
viên bản xứ, khéo hướng dẫn, sẽ giúp việc đắc lực,
nhất là một khi ta cho họ , về mặt chức tước, lương bồng,
thăng thưởng, những điều kiện in hệt với nhân viên hành
chính trung ương hay các tỉnh.
Sài
gòn ngày 20 tháng 10 / 1889
E.
Roucoules
Giáo
sư-cố vấn
----------------------------
Lại
Như Bằng dịch, ngày 13/07/2010
Bổ
túc phần phụ lục / sửa dổi trình bày chú thích 5 ,
ngày 23/06/2012
|