[ Mục lục /  [ Trang trước ]  /   [ Trang sau ]
HOÀNG XUÂN-HÃN
Lý Thường Kiệt
LỊCH-SỬ NGOẠI-GIAO TRIỀU LÝ
Phần II - Kháng Tống - Đòi đất

CHƯƠNG XII : KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT 

 1. Tống tổ-chức nhượng-địa - 
2. Khôi-phục Quang lang - 
3. Đòi Quảng-nguyên : Đào Tông Nguyên - 
4. Tống trả nhượng địa -
5.Dư luận - 
6. Bang-giao thân thiện (1079-1082) - 
7. Đòi Vật-ác, Vật-dương. Lại Đào Tông-Nguyên - 
8. Phái-đoàn Lê Văn-Thịnh - 
9. Lý cố nài Tống quyết từ - 
Chú-thích

 1.- Tống tổ-chức nhượng-địa
Tuy không lấy được toàn cõi nước ta, nhưng Tống cũng đã chiếm đuợc năm châu miền núi : Quang-lang, Tô-mậu, Môn, Tư-lang và Quảng-nguyên. Trong đó hai châu Quang-lang và Quảng-nguyên là quan-trọng hơn cả. Quang-lang là cổ-họng của châu Ung, và Quảng-nguyên là nơi có tiếng sản-xuất nhiều vàng bạc.

Tống liền tổ-chức cai-trị các châu ấy. Ngày 25 tháng 2, sau khi triều-đình mừng thắng trận, vua Tống hạ chiếu đổi Quảng-nguyên ra Thuận-châu và thăng Quang-lang lên hàng huyện. (TB 280/16a)

Ta sẽ thấy rằng Quang-lang ở vào địa-thế không thể giữ được, nên Tống phải bỏ, sau khi Quách Quì rút quân. Các châu Tô-mậu và Môn hình như không được hai bên chú-ý lắm. Còn Thuận-châu, thì được đặt vào hàng Ung-châu, và có lẽ kiêm-quản các châu kia.

Đào Bật liền được bổ coi châu mới ấy (28-2, TB 280/22a). Bật là người Vĩnh-châu. Xuất thân vũ-chức. Trước đã từng giúp Dương Điền đánh giặc Dao ở Hồ-nam. Sau lại có công phủ-dụ dân bị loạn Nùng Trí-Cao lôi cuốn. Trong vụ hành-quân đánh Lý lần nầy, Bật đã được giao những trọng-chức, là đi phủ-dụ các dân khê-động vùng Tả-giang : và mỗi lúc đại-quân tiến hay lui, Bật cũng phải cầm quân chặn hậu (XI/6). Tuy là vũ-tướng, Bật lại là một thi-sĩ có tài. Lê Quí-Đôn có chép trong sách Kiến-văn tiểu-lục (quyển 4) sáu bài thơ mà Bật làm trong khi đi tuần-thúp ở Tả-giang. Số là, sau khi ta đã rút khỏi Ung-châu, Tống lập lại thành Ung. Rồi tháng 5 Bính-thìn 1076, bổ Đào Bật tới coi châu ấy. Quách Quì lại sai Bật vào các khê-động phủ-dụ man dân. Trong khi đi đường qua trại Vĩnh-bình, Bật có bài thơ ngũ-ngôn, tả cảnh nơi biên-thùy xa-xăm buồn tẻ đối với một biên-tướng giàu thi-tứ :

Điệp-chướng thâm thiên-lý, Nghìn dặm núi chồng-chất.
Cùng-biên kim nhất ngu. Một góc biên tít xa
Bắc-phong gia tín-tức, Nam đẩu soi đường khách.
Nam-đẩu khách trình-đồ. Bắc-phong thổi tin nhà.
Lĩnh-thế tần khai hợp, Cửa Lĩnh từng khép mở,
Viên-thanh sạ hữu vô Tiếng vượn chốc kêu ca.
Quá khê nhân tiếu ngữ, Lội khe, ai cười nói :
Cách ngạn thú-yên cô. Đồn cách, khói la-tha.

Xét nhân-cách, chức-vị, công-trạng của viên tri-châu đầu ở Thuận-châu, ta biết rằng Tống quan-tâm đến nhượng-địa vừa được, và gắng sức tổ-chức cai-trị.

Ngoài Đào Bật, Tống định bổ tới Thuận-châu đủ các viên-chức, mỗi chức một người : thông-phán, thiểm-thư, phán-quan, kiềm-hạt, đô-giám, đô-áp. Sợ rằng châu mới độc nước, quan-lại không thích đi, chiếu thư có dặn rằng : " Mỗi năm sẽ thay một quan. Ở hết hạn, được thăng một chức, và bổ về mạc-chức, nghĩa là ở chỗ trung-ương ". (21-2, TB 280/15b)

Việc đầu Tống làm là củng-cố sự đề-phòng châu mới. Từ tháng giêng (Đ. Ti 1077), ti tuyên-phủ đã tâu : " Châu Quảng-nguyên mới được, nên đóng binh phòng-bị khai-thác. Xin theo lệ các đất Hi-hà và Nguyên-châu, đem các tội-nhân tới giam đó ". Vua Tống bằng lòng và bảo đem tội-nhân bị án phát-phối, từ Hoài-nam trở xuống, đến ở Quảng-nguyên. (28-1, TB 280/7a)

Ngày mồng 8 tháng 3, ngự-sử Đặng Nhuận-Phủ tâu : " Gần đây, nghe nói đã đắp thêm thành Quảng-nguyên và đã bổ vũ thần đến coi. Xin trước hết sait ti an-phủ Quảng-tây cùng giám-ti xét các điều-lệ lợi hại thế nào, mỗi năm dùng giáp-binh bao nhiêu, lương-thực bao nhiêu, giáp-binh lấy từ đâu, lương-thực biện chỗ nào. Làm sao cho lính đủ để chống giặc, lương đủ cho lính ăn, và khi thình-lình có biến, khỏi phải lo-liệu lật-đật vất-vả ". Tống liền sai 17 chỉ-huy ở các xứ Hồng-châu tới phòng-thủ Quảng-nguyên, Tư-lang. (TB 281/1b và 2a)

Việc thứ hai là tổ-chức khai-lợi các mỏ. Chiến-tranh chưa hết, Quách Quì đã xin sai viên đề-điểm-hình-ngục Quảng-tây đề-cử đặt các lò luyện quặng vàng bạc ở Quảng-nguyên (28-1, TB 280/7a). Ngày mồng 9 tháng 3, có chiếu sai viên quan cao-cấp là viên-ngoại-lang Tất Trọng-Hùng coi về việc ấy (TB 281/20 và 3a).

Việc thứ ba là thu-phục nhân-tâm. Tống đặt các chức lại-trị coi đủ mọi việc hành-chánh. Lại thưởng công cho các tù-trưởng đã theo giúp quân Tống, như cháu Nùng Thiện-Mỹ là Huệ Đàm (TB 280/21b), và định cấp ấn son cho các động-trưởng. (19-4, TB 281/10b)

Châu-trị bấy giờ đóng ở đâu ? Thành Na-lữ, ngày nay còn dấu, có lẽ là thành Thuận-châu cũ.

2. Khôi-phục Quang lang
Huyện Quang-lang kề trại Vĩnh-bình, thuộc Ung-châu cai quản. Đất ấy quan-trọng, vì gần-gũi các đồn ở Vĩnh-bình, nhưng sự phòng-thủ dễ-dàng hơn Thuận-châu. Vả lại hòa-bình đã trở lại dần-dần. Vua Lý đã xin sai sứ tới Tống. Triệu TiêÙt, bấy giờ coi Quế-châu, không ngần-ngại mà rút bớt tiền chi-phí về việc quân phòng-thủ ở Quang-lang(1-5, TB 282/1a).

Lý Thường-Kiệt liền mưu-đồ chiếm lại những đất đã mất. Sau khi quân Quách Quì rút lui khỏi Lạng-châu, quân Lý liền theo sau, và đóng giữ ở động Giáp. Rồi kéo vào đánh úp, chiếm lại Quang-lang (TB 283/15a). Các viên tri-huyện Hồ Thanh và tuần-phòng Trần Tung đều bỏ chạy (TB 287/1b).

Thế mà viên coi trại Vĩnh-bình không biết. Tháng 7 (Đ.Ti 1077), ti chuyển-vận mới tâu về triều, nói : " Có dò được tin quân Giao-chỉ hiện đóng ở ngoài huyện Quang-lang ". Vua Tống không hài lòng, hạ chiếu : " Huyện Quang-lang đã bị quân Giao-chỉ đánh úp và chiếm. Chưa thấy lộ Quảng-tây xử-trí làm sao. Từ đó qua ải Quyết-lý đến Thuận-châu không xa. Coi khéo lại không thể cố-thủ được. Phải làm sao cho không tổn quốc-uy, sao cho binh-lực và tài-phí không càng ngày càng hao-tổn. Vậy giao cho Triệu TiêÙt, Lý Bình-Nhất, Miêu Thì-Trung cùng nhau bàn mưu-kế cho đúng lợi hại. Chớ có lần-lữa tránh việc, đến nỗi hỏng đại-sự của Triều-đình ở một phương, Bàn-định xong, rồi sẽ gấp tự viết thư báo về tâu rõ. " (TB 283/15a)

Sau đó không thấy Tiết tâu điều bàn-định về triều. Chỉ thấy rằng ngày 8 tháng giêng nhuận năm sau (Mậu-ngọ 1078), hai viên-chức ở Quang-lang bị kết tội bỏ thành trốn : Trần Tung bị chém và Hồ Thanh bị đày ra đảo Sa-môn. (TB 287/15b)

Thế là quân Lý đã lấy lại được huyện Quang lang. Có lẽ hai châu gần cạnh, là Tô-mậu và Môn, cũng được giải-phóng nốt. Chỉ còn Quảng-nguyên, vì trọng-binh Tống đóng, quân Lý chưa giám kéo vào. Nhưng Lý thường thường đe-dọa, phao truyền tin sắp tới chiếm Quảng-nguyên, để thử xem quan Tống hành-động thế nào. Được tin, Đào Bật vẫn điềm-nhiên, khuyên binh-sĩ ở yên cố-thủ, chớ khiêu-khích quân Lý. Vì vậy quân Lý vẫn đóng im ở Quang-lang, không giám kéo vào. Dân Thuận-châu được yên-tĩnh. Hễ quân Lý động tĩnh thế nào, đều có kẻ mách cho Đào Bật biết. (TB 334 và TB 280/24a)

Dùng vũ-lực khôi-phục đất mất sợ không xong, Lý lại chủ-trương ngoại-giao mềm-giẻo, và xin sai sứ tới bàn. Triệu Tiết tâu về, vua Tống bằng lòng, và hạ chiếu nói : " Giao-chỉ chịu theo ta rồi. Nếu nó có sai người tới bàn việc, hãy cho tới Quế-châu " (1-5, TB. 282/1a).

Tuy vậy, vua Tống vẫn sợ quân ta sẽ sang đánh Ung-châu như trước. Vua viết thư hỏi ý-kiến Triệu Tiết : " Giao-chỉ nghịch thuận thế nào ? Chúng sắp vào cống. Thế nào chúng cũng yêu cầu dân miền đã nhượng cho ta. Ta nên trả lời chóng hay chầy, cho chúng nhiều hay ít ? "

Tiết tra lời rất tường-tận. Lời bàn như sau :

" Lúc chống quân ta ở sông Phú-lương, Giao-chỉ đã đem tất cả các tướng giỏi tụ-tập lại đó. Thế mà cũng đến nỗi thế cùng, lực quệ, rồi phải xin hàng. Nay việc binh vừa xong. Nên để binh dừng, dân nghỉ. Nhưng tụi thủ-lĩnh các khê-động thuộc Khâm, Liêm muốn dựa vào biên-hấn để kiếm-lợi. Chúng trương-hoành thanh-thế giặc, để làm náo-động biên-tình. Những kẻ nhẹ dạ hay nghe và thích kiếm chuyện, lại đồng-thanh phụ-họa, gây lo cho phương nam.

" Tôi xét thế Giao-chỉ, thấy chúng chưa giám động. Ấy vì có ba lẽ :

" 1.) Trước đây, Giao-chỉ lấy tụi Lưu Kỷ làm mưu-chủ. Nay tụi ấy đã được ta bổ làm công-chức. Các thuế mỏ vàng mỏ bạc ở Quảng-nguyên, Tư-lang, nay đều về ta. Các khê-động mới theo ta, nay đều tự-chủ và lập đảng riêng-biệt ; Giao-chỉ khó lòng mà họp lại được. Huống chi dân miền biên-thùy chống lại chúng, không chịu để chúng hiếp-dỗ. Ta đã lấy được phủ ở phía ngoài đất chúng, như là đã cắt cánh tay phải của chúng. Trong vài năm nữa, thế chúng vẫn còn chết. Càn-đức nhỏ-dại, chính-sự phần lớn ở môn-nhân mà ra. Chúng nó còn phải gầm-ghè nhau để tự-bảo, không rỗi tay để cướp ta. Đó là lẽ thứ nhất, mà chúng chưa giám động.

" 2.) Từ kinh-thành Giao-chỉ đến biên-trại cũ, đường đi mất hơn mười ngày. Từ trước, giặc tới đó chưa từng có đủ lương ăn. Chúng chỉ nhờ tụi Lưu Kỷ góp-nhặt cấp cho, mà cũng không đủ ăn nửa tháng. Hết rồi thì chúng cướp-đoạt của dân. Cho nên dân rất oán-thù. Trước đây, tụi Kỷ liên-lạc với các khê-động ở đất ta, và nhờ dẫn đường, nên chúng giám vào cướp. Nay phên-giạu đều hết sạch. Chúng biết nương-tựa vào đâu mà dám dòm-ngó biên-thùy ?

Từ khi chúng làm phản đến nay, dân bỏ cày đã hai năm. Dân ta cũng bỏ cày cấy. Lại thêm bị điều-động, bị tật-dịch. Số chết nhiều không kể xiết. Ví như chúng có ý ngông-cuồng tranh cương-thổ ta, thì vừa qua khỏi trường-giang (1), đã dậm lên đất ta. Chúng lấy ai dẫn đường ? Lấy lương đâu ăn ? Quân giặc có bao nhiêu để tự-vệ ? Phải chia quân ra thủy lục, thì quân chắc ít, khí chắc hết. Đó là lẽ thứ hai, mà chúng chưa giám động.

" 3.) Giao-chỉ thu thuế nặng. Những nhà hạng vừa và hạng dưới mà mỗi năm phải nộp đến trăm quan. Bốn phần mười thuế ấy nộp nhà chúa ; còn dư, các thủ-lĩnh lấy. Thuế nặng đến nỗi dân phải xiết cả tài-sản, vợ con, mà bù không đủ số thiếu. Biên-dân rất oán-giận. Vừa rồi, quan-quân đến đánh. Muốn tỏ lòng thương những dân-chúng tới hàng, ta đã treo các sắc-bảng hứa tha cho chúng năm năm thuế. Lòng chúng đều vui qui-thuận. Giá-sử Giao-chỉ trở lại hiếp dỗ chúng, thì có ai theo ? Đó là lẽ thứ ba, mà chúng chưa giám động.

" Xét ba lẽ chúng không thể động, ta thấy rằng giặc vừa bị thương-di như thế, mà sợ chúng lại phạm thiên-uy, thì quá đáng. Trước đây, Địch Thanh bại Nùng Trí-Cao xong rồi rút quân liền, không cần phá sào-huyệt nó. Thế mà Trí-Cao rồi cũng bị giết. Huống nay, Giao-chỉ đã không trông cậy vào láng-giềng nào, mà dân-chúng đều oán. Thế cô như cây măng. Chỉ chờ thời bị diệt. " (TB 291/6b)

Tuy lời thư của Triệu Tiết ngoa và không đáp lại những câu hỏi của Tống Thần-tông, nhưng nó tả cũng khá đúng thế-lực và tâm-tình tương-đối của hai bên Tống Lý, một năm sau khi giảng-hòa. Thật vậy, tuy Lý giữ được gần toàn binh-lực ở đồng bằng, nhưng vây-cánh ở thượng-du hoàn-toàn bị tan-rã. Họ Nùng, họ Vi (2) theo Tống đã đành. Mà họ Thân hình như cũng điêu-tàn. Trong sử Lý sau này, không thấy nói gì đến nữa. Trái lại, trong đời Anh-tông, có Thân Lợi tự xưng là con Nhân-tông họp nhiều quân, chiếm các đất Bắc-cạn, Thái-nguyên (1140, TT ; không biết Lợi có họ hàng gì với họ Thân ở động Giáp hay không (VSL chép tên Ông Thân-Lợi vào năm 1139). Còn Tống thì chán-nản không muốn đánh nhau với quân ta nữa, tuy rằng vẫn muốn giữ các mỏ vàng Quảng-nguyên.

Tống Thần-tông nghe lời Triệu Tiết, bèn " xá tội " cho vua Lý. Tống Lý trở lại hòa-thuận cùng nhau. Lý Thường-Kiệt sẽ cơ-hội để ngoại-giao đòi lại những đất còn mất.

3.- Đòi Quảng-nguyên : Đào Tông-Nguyên
Tháng 7 năm ấy (Đ.Ti 1077), triều đình Tống xét rõ công-trạng của các tướng thuộc An-nam hành-doanh ; Quách Quì bị an-trí ở Tây-kinh, còn Triệu Tiết vẫn được lưu lại coi Quế-châu, sung chức an-phủ-sứ Quảng-tây, để đối-phó với Lý. Tháng 10, sứ-bộ ta tới biên. Tiết tâu rằng : " Người Giao sai tụi Lý Kế-Nguyên tới biên-giới cùng với quan ta bàn việc. Tôi muốn bảo quan ta lấy ấn-tín triều-đình mà hiểu-dụ Càn-đức, ra lệnh cho y trả lại những nhân-khẩu đã cướp, rồi triều-đình sẽ cấp đất cho. " Vua Tống bằng lòng. (TB 285/4b)

Nhưng trong lời biểu của vua Lý, có dùng chữ húy của triều Tống. Triệu Tiết không chịu nhận biểu, và bảo sứ ta trở về chữa lại. Ngày 15 tháng 11, Tiết tâu : " Giao-chỉ dâng biểu có phạm miếu-húy. Sứ-giả đã về rồi. " Vua Tống bảo cứ thu rồi tâu đệ về triều. (TB 285/17b)

Đầu năm sau (M. Ng 1078), vua Lý sai Đào Tông-Nguyên trở lại đi sứ. Tông-Nguyên đem theo năm voi để cống, và tờ biểu của vua Lý xin lại các đất Quảng-nguyên và Quang-lang (TT chép vào tháng giêng nhuận, VSL chép vào tháng 2 ; còn TB chép vào tháng giêng như TT).

Lời biểu nói rằng :

" Tôi đã nhận được chiếu-chỉ cho phép theo lệ tới cống, y như lời tôi thỉnh-cầu. Chiếu lại đã sai quan thuộc ti an-phủ định rõ cương-giới và dặn tôi không được xâm-phạm. Tôi đã vâng chỉ-dụ. Nay sai người tới cống phương-vật. Tôi xin triều-đình trả lại các đất Quảng-nguyên và Quang-lang " (3). (9-1, A. Ma, DL 25-1-1078 ; TB 287/1a)

Vua Tống trả lời : " Hãy đợi sứ tới kinh, sẽ phân-xử về cương-giới. "

Tuy vậy, ti kinh-lược Quảng-tây có kẻ không muốn để sứ tiến kinh. Ngày 22 tháng giêng nhuận, ti chuyển -vận tâu trằng : " Trước đây, sứ Giao-chỉ đến, nhưng phải quay về, vì trong biểu có phạm húy. Nay sứ đã trở lại, và đã chữa biểu. Nhưng viên câu-đương thuộc ti kinh-lược, là Dương Nguyên-Khanh, chưa chịu thu nhận. Sợ chúng ngờ-vực là muốn ngăn chúng ". Vua Tống liền bảo tụi Nguyên-Khanh : " Phải nhận và gửi biểu về, sai người đưa sứ tới kinh. Còn như việc chúng đòi trả nhân-khẩu và sự định biên-giới, thì hãy đợi phân-xử riêng " (TB 287/19a)

Vua tôi Tống vẫn sợ ta có lòng phản-trắc. Triệu Tiết xin tăng quân đóng ở Quế-châu cho được 5.000 (TB 285/8b). Ti chuyển-vận Quảng-tây xin tăng lương-thực và tiền bạc (TB 287/20b). Quế-châu xin sai chúa trại Hoành-sơn tới đạo Đặc-ma mua ngựa, và tới châu Ung, Khâm kiểm-điểm đân khê-động và sai tập rèn vũ-nghệ (TB 286/5a). Vua Tống sai khuyến-khích dân Thái xứ Cửu-đạo-bạch-y, vì chúng đã trình những việc thám-thính được ở nước ta (TB 285/18a). Nhân bấy giờ có sứ Chiêm-thành tới Quảng-châu, ti kinh-lược Quảng-đông không muốn cho vào kinh, vì " chúng đều vãng-lai với Giao-chỉ, sợ có gian-phi lẫn vào để thám-thính " (TB 285/17a). Trong khi sứ ta khó-nhọc dẫn đàn voi đi Biện-kinh, vua Tống phê rằng : " Sứ Giao tiến tới kinh. Vì chúng mới cướp ta, nên phải lo đề-phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới kinh, hễ chúng ra vào, phải cắt người giám-thị. Vậy phải viết thư cho ti kinh-lược Quảng-tây và cho các viên hộ-tống phải mau mau báo-cáo. Nếu dọc đường có xẩy việc gì, ti kinh-lược chưa kịp bẩm, thì cứ việc thi-hành. " (25-5, TB 289/18b).

Tháng 6, sứ-bộ qua lộ Kinh-hồ-bắc. Viên chuyển-vận sứ ở đó không đủ phu hộ-tống, xin phép bỏ tiền thuê phu cho đắt (TB 290/1b). Ngày mồng 2 tháng 9, Đào Tông-Nguyên đã tới kinh, xin dâng cống-vật (TB 292/1b).

Triệu Tiết khuyên Tống Thần-tông đừng trả hai châu Quảng-nguyên và Tư-lang (theo TCK, TB 300/12b). YÙ Thần-tông cũng không bằng lòng trả (TS 14).

Nhưng từ khi chiếm được Quảng-nguyên, Tống đã bị thất-vọng lớn. Châu ở cách xa Ung hai ngàn dặm. Khí-hậu lại độc. Quân thú mười phần chết mất bảy, tám (TS 334). Mỗi lúc đến phiên đi thú ở đó, lính từ-biệt vợ con như là sắp chết. Cả nhà khóc-lóc rất là thảm-thiết (ĐHBL). Quân thú đào-ngũ hàng đoàn. Có lúc có hai quân-đội bỏ doanh trốn về nhà. Triệu Tiết nghe nói, viết thư cho tướng chỉ-huy chúng, bảo : " Quân đóng ở ngoài lâu ngày mệt nhọc, cho chúng nghỉ một tháng, rồi bảo chúng trở lại. " Lúc chúng về qua doanh, Tiết mời ăn uống. Rồi gọi hai người đứng đầu mà hỏi vì sao bỏ ngũ. Chúng đều trả lờiv : " Chỉ vì đi thú lâu ngày ở nơi nước độc, cho nên nhớ nhà. " Tiết nói : " Mẹ ta già tám mươi tuổi. Ta muốn về thăm, có được không ? " Lập-tức sai chém hai người ấy, và phạt tội bọn kia phải đánh và đày đi châu khác (TB 291/7b).

Các viên-chức ở Quảng-nguyên lần-lần ốm chết. Từ ngày mồng một tháng ba năm Mậu-ngọ (1078), Đào Bật đã cáo ốm, và xin đổi, hay về hưu nếu không có chỗ để đổi đi. Vua Tống sai Tiết khám thật, và bảo chọn người khỏe mạnh thay-thế, để Bật về nghỉ ở Quế-châu (TB 288/7b). Bật được đổi và thăng chức, nhưng ốm chết vào tháng mười một năm ấy (TB 291/3b).

Vua Tống hỏi ý-kiến Triệu Tiết, thì Tiết khuyên giữ lấy Quảng-nguyên và Tư-lang (1-8, TCK, xem TB 300/12b)

Triều-đình cho đất Thuận-châu là vô-dụng. Vua Tống bất-đắc-dĩ phải trả lời sẽ trả cho vua Lý. Nhưng, hoặc muốn giữ thể-diện, hoặc để khỏi bị chỉ-trích, hoặc vẫn muốn theo lời Tiết, Tống Thần-tông đòi ta trả trước các tù-binh và nhân-khẩu đã bị bắt. Tống-sử còn chép lời chiếu trả lời cho Lý Nhân-tông như sau :

" Khanh đã được triều-đình cho coi cõi Nam-giao, đời đời được ban vương-tước. Thế mà, Khanh đã bội đức, phụ mệnh, tới cướp phá các biên-thành ; đã bỏ lòng trung-thuận của cha ông, làm phiền quân triều-đình phải đi chinh-phạt. Đến lúc quan-quân vào rong cõi, thế bức rồi Khanh mới qui-hàng. Xét tội, thì Khanh càng đáng bị truất chức.

" Nay Khanh đã sai sứ tới cống ; dâng lời rất kính-cần. Xét rõ tư-tình. Trẫm thấy Khanh đã biết hối.

" Trẫm vỗ-về vạn-quốc, không kể xa gần. Nhưng Khanh phải trả các dân Khâm, Ung mà Khanh đã bắt đưa đi xa làng-mạc chúng. Đợi khi nào Khanh đưa chúng trở về hết, Trẫm sẽ lập-tức lấy các châu Quảng-nguyên ban cho Khanh ". (TS 488)

Đào Tông-Nguyên đệ lời vua Lý, hẹn sẽ trả một nghìn quan-lại bắt ở ba châu Khâm, Liêm, Ung (TS 488). Tống Thần-tông lại đặt ra một điều-kiện mới, là phải phạt những kẻ cầm-đầu gây việc chiến-tranh. Sách TB (292/4a) chép rằng ngày 12 tháng 9, Tống Thần-tông hạ chiếu nói :

" Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-Đức bằng lòng trả những người đã cướp ở ba châu Ung, Khâm, Liêm, thì theo lời Khanh đã xin, lấy các châu Quảng-nguyên, Tô-mậu và huyện Quang-lang trả lại cho. Nhưng phải đem các thủ-lĩnh đã gây loạn đến biên-giới xử ? " (Q. Vi, DL 1-10-1078).

Thế là Tống đòi Lý xử " tội-nhân chiến-tranh ". Mà tộ-nhân ấy chính là ám-chỉ Lý Thường-Kiệt ! Vua Lý trả lời rất tường-tận. Đó là theo chú-thích ở sách TB (292/4a), nhưng sách ấy nói : bản Thục-lực cựu-kỷ (4) chép lời đáp rất rõ, bản tân-kỷ bỏ đi. Nay sách ấy không chép lại. Ta rất tiếc không được biết lời-lẽ thư trả lời ấy. Nhưng ta cũng đoán được rằng Lý không nhận đem xử thủ-lĩnh gây loạn. Mà vì thế, phái-bộ Đào Tông-Nguyên lần này không đem lại được một kết-quả thực-tế gì về việc đòi đất Quảng-nguyên, ngoài lời hứa của hai bên.

4.- Tống trảø nhượng-địa
Tuy Tống lấy giọng bề trên đối với vua Lý, nhưng bề trong, Tống vẫn sợ ta uy-hiếp biên-thùy. Đối với sứ-bộ Đào Tông-Nguyên, Tống tiếp-đãi rất tử-tế. Bấy giờ sứ Chiêm-thành cũng vừa đến, đưa voi từ Quảng-châu tới cống (tới Quảng-châu từ tháng chạp năm trước. TB 286/1a). Sứ Chiêm sợ gặp mặt sứ ta. Vua Tống tỏ vẻ lúng túng, vì biết rằng ta tự coi Chiêm-thành như phụ-thuộc trực-tiếp nước ta. Bèn sai xếp-đặt làm sao cho hai sứ-bộ không chạm mặt nhau, và để tỏ rõ rằng Tống ưu-đãi sứ ta hơn sứ Chiêm. Vua Tống dặn các viên đón-tiếp rằng : " Nhà ở, nơi ăn yến, đều để riêng. Gặp ngày sóc, thì hai phái-bộ đều đến điện Văn-đức, nhưng chia ra đông-tây mà đứng. Ngày vọng thì phái-bộ Giao-chỉ vào điện Thùy-củng, phái-bộ Chiêm-thành vào điện Tử-thần. Ngủ và đãi yến thì sứ Giao ở điện Đông-đoá, sứ Chiêm ở Tây-vu ". (TB 292/7a)

Tống Thần-tông bấy giờ lo việc biên-thùy miền bắc hơn miền nam. Tháng 8 năm ấy (M. Ng 1078), đổi Triệu Tiết đi coi Thái-nguyên, và bổ Tăng Bố thay. Nhưng viện khu-mật xin lưu Tiết coi ti an-phủ, tuy rằng Bố đã đến Quế-châu (12-9, TB 292/4a).

Trong khi ấy, nội-tình ở Quảng-nguyên, cũng như ở các biên-trại, vẫn khó-khăn và bối-rối. Đào Bật ốm nặng. Ngày 28 tháng 10, phải sai Trương Chi-Gián thay coi Thuận-châu. Bật không về kịp, tháng sau thì mất. (TB 292/12a).

Ung-châu bị tật-dịch, hỏa-tai luôn luôn. Người đương-thời hay tin những điềm gở. Khi tấy một tượng Phật ở Ung-châu tự-nhiên động, dân-gian lo-sợ ; vì trước quân Lý vào đánh Ung-châu cũng đã có điềm ấy. Vua Tống sai lập thủy-lục đạo-tràng để cầu phúc cho những oan-hồn tử-sĩ, và giao cho Tăng Bố bàn có nên dời thành Ung hay không (TB 392/7a). Mà điềm xấu không phải ngoa. Các doanh-đồn, kho, trại ở Ung, Liêm, Vĩnh-bình, Thái-bình bị cháy. Rất nhiều lương-thực, khí-giới bị thiêu-hủy (TB 293/9a). Phải chăng chỉ là sự tình-cờ ?

Một mặt khác, thấy Tống lần nữa không muốn trả Quảng-nguyên, Lý Thường-Kiệt xui dân châu cướp phá. Ngày 21 tháng tư năm Kỷ-mùi 1079, ti kinh-lược Quảng-tây tâu : " Dân Man cướp Thuận-châu. Xin đưa quân dẹp. Vua Tống phê : " Có thể đưa cả đạo quân đoàn-kết ở Đàm-châu đến Quế-châu, tạm đóng để trấn-tĩnh lòng dân ở Lưỡng-Quảng, cho chúng khỏi khiếp-sợ. Đợi lúc biên-sự yên, quân ấy sẽ trở về chỗ cũ ". (TB 297/15b)

Cầm đầu quân giải-phóng ấy có Nùng Trí-Xuân coi động Cung-khuyết. Trí-Xuân có lẽ là dòng Trí-Cao, vốn đã theo Tống, và được ban chức nội-điện sùng-ban. Bấy giờ, Trí-Xuân thông với họ Ma coi vùng Bắc-cạn ngày nay. Ma Thuận-Phúc coi động Vũ-lăng (đất Bắc-cạn) và Hoàng Phu họp quân cùng Nùng Trí-Xuân, đánh Thuận-châu (TB 298/13a ; TB 300/6b chép Ma Trọng-Phúc). Các tù-trường trung-thành với Tống chống lại, trong bọn ấy, có Linh Sùng-Khái (5) coi châu Cát-lộng (Có lẽ cũng là đất Cổ lộng ở phía bắc vùng Ngân-sơn phía nam Cao-bằng, X/7). Nùng Trí-Hội coi châu Qui-hóa cũng đem 2.000 quân tới cứu Thuận-châu (TB 298/4b).

Trí-Xuân thua. Chạy xuống miền nam cầu-viện với vua Lý. Lúc trở lại thì bị viên coi Đống-châu là Hoàng An-Cao giết. Vợ con và đồ-đảng cũng bị bắt (TB 298/13a tháng 6). Ba tháng sau, Ma Thuận-Phúc và Hoàng Phu cũng bị bắt và đày đi xa (TB 300/6b). Lý Thường-Kiệt hình như cũng không muốn gây việc chiến-tranh to. Cho nên việc khởi-nghĩa ở Quảng-nguyên cũng tạm bỏ.

Nhưng các quan Tống ở Quảng-nguyên lần-lượt chết bệnh. Vua Tống thương-xót, truy-ân cho viên quyền-phát Vương Cảnh-Nhân, viên đô-giám Trương Cát, viên đô-giám Dương Nguyên-Khanh, viên tuần-phán Lưu Tử-Dân (tháng 10, TB 300/9b và 12 a), viên kiềm-hạt Trương Thuật và viên đồng-tuần-kiểm Ngô Hạo (tháng 11, TB 301/4b và 5a). Các người ấy đều chết bệnh sốt-rét ở Quảng-nguyên.)

Lính thú thì mỗi năm cắt tới ba nghìn, mà chết năm sáu phần. Đó là lời của Triệu Tiết nói (TL, TB 300/12b). Vua Tống phải đặt lệ ban tiền tuất cho con cháu những tử-sĩ một cách rất hậu (TB 301/7b).

Cuối cùng, Triệu Tiết cũng nhận rằng không thể giữ được châu Quảng-nguyên. Nhưng trong triều còn có kẻ luyến tiếc. Vua Tống nói : " Vì Càn-đức đã phạm-thuận, ta mới sai quân đi hỏi tội. Quách Quì đã không đánh lấy được kinh-đô nó. Mà nay, Thuận-châu là đất lam-chướng. Triều-đình được đất ấy cũng chưa có lợi. Lẽ nào lại còn tự mình xua thú-binh vào nơi nước độc. Một người bị chết, Trẫm còn thương-xót, huống chi trong mười người chết mất năm, sáu. " (TCL, xem TB 300/12b). Miêu Thì-Trung cũng bàn nên bỏ, nhưng không muốn chính-thức trả lại cho vua Lý. Y nói : " Các đồn-trại thuộc Thuận-châu ở sâu trong đất giặc. Chở lương vào đó rất khó. Thú-binh đóng đó. Mười người chết tám chín. Vậy ta nên bỏ đi. Nhưng mà Thuận-châu vốn là đất cơ-mi của châu Ung, chứ không phải thuộc Giao-chỉ ". (TB 300/12b)

Vua tôi nhất-định trả đất Quảng-nguyên. Chỉ còn chờ cơ-hội có thể trả mà không mất thể-diện mà thôi.

Cơ-hội ấy sắp đến. Không lấy sự Tống yêu-sách xử tội mình làm giận, Lý Thường-Kiệt sai đem trả một ít tù-nhân, gồm đủ gái trai già trẻ.

Các tù-nhân ấy được đưa từ Ngệ-an về bằng đường thủy. Cửa thuyền đều bị trát bùn kín. Trong thuyền thắp đèn đuốc luôn, để tù-nhân không biết ngày đêm thế nào, và cũng không thấy đường-sá. Mỗi ngày chỉ cho thuyền đi chừng mười đến hai mươi dặm rồi bắt đậu lại. Quân lính canh thuyền giả đánh trống cầm canh. Ngồi trong thuyền nghe canh, tưởng chừng đi trong vài tháng mới tới nơi. (TS 488).

Ngày 13 tháng 10 năm ấy (K. Mu 1079), ti kinh-lược Quảng-tây tâu nói Giao-chỉ đã đưa trả 221 người dân đã cướp (TS 488 và TB 300/12a chép số ấy, còn TB 349/7a chép 206 người). Tuy Lý trả không đủ số một nghìn quan-lại đã hẹn, và tuy đã khắc chữ vào mặt và tay tù-nhân (VII/9). Tống Thần-tông cũng vin vào cơ-hội, mà phán rằng : " Hãy nhận tù-nhân ; và bỏ Thuận-châu, lấy ban cho Giao-chỉ. " (13-10, M. Ta, DL 9-11-1079 ; TB 333/12a). Tuy lời chiếu chỉ nói đến đất Thuận-châu, nhưng kỳ-thật thì Tống trả tất cả bốn châu, một huyện mà quân Quách Quì đã chiếm : Quảng-nguyên, Tư-lang, Môn, Tô-mậu và Quang-lang. (TS 488)

Tuy vậy, quan Tống đã đề-phòng sự trả đất nầy, cho nên trước đó đã bớt lại những châu, động, nguyên thuộc Ung-châu mà sau sáp-nhập vào Thuận-châu. Sáu tháng trước, ti kinh-lược Quảng-tây nói : " Những động như Cống thuộc châu Thuận-an, trước là thuộc Ung-châu. Sau khi lấy được Quảng-nguyên, mới nhập vào đó. Vậy xin đem nhập lại Ung-châu. " Vua Tống bằng lòng (TB 297/15a). Tống trả đất, nhưng đã di-dân vào đất Tống. Một năm sau khi có chiếu trả Thuận-châu, viên coi Ung-châu là Lưu Sơ tâu : " Đã dời 9.929 người đã theo ta vào ở các động gần trong, để dễ đàn-áp. Dân dời tới Tả-giang thì giao cho các viên tuần-kiểm Nùng Bảo-Phúc và viên coi Giang-châu Hoàng Thiên-Hưng quản. Dân dời vào Hữu-giang thì giao cho các viên coi Điền-châu Hoàng Tiên-Sảnh, viên coi Đống-châu Hoàng An-Định quan-sát. " Vua Tống bằng lòng. (22-10-C. Ta 1080, TB 309/14a)

5.- Dư-luận
Đến đây, là chấm dứt cái chính-sách của Tống muốn chinh-phục nước Đại-Việt. Nào hai bên huy-động quân, dân, hàng chục vạn, nào biện-luận trong gần bốn năm ; kết-quả là biên-thùy lại trở lại như trước năm Ất-mão 1075. Thế mà Tống đã thiệt hơn hai chục vạn người.

Đối với nước ta tuy có thể nói không được thua gì. Nhưng thật ra, nếu ta để Tống tấn-công trước, chưa chắc quân ta đã bảo-toàn lãnh-thổ được. Vậy cho nên chánh-sách ngoại-giao của Lý gồm ba thời kỳ, là tấn-công, cầm-cự để đến đình-chiến và điều-đình, có lẽ là con đường độc-nhất mà một nước nhỏ phải làm, để đối-phó với một nước lớn, lăm-le muốn nuốt mình.

Xét lại, cuộc tấn-công của Lý Thường-Kiệt không những là táo-bạo, mà ta có thể nghĩ đó là vong-mạng, dễ-dàng đem lại những ảnh-hưởng tai-hại vô-cùng cho nước ta. Nhưng sự hành-động của ông đã thành-công. Ấy vì ông đã quan-sát tường-tận tình-hình, quyết-định rõ-ràng kế-hoạch. Khiến nên, trong lịch-sử nước ta, có một vũ-công phi-thường, để dấu chân người Đại-Việt lên đất xưa vua Triệu. Đời sau, không có khi nào người nước ta có nhịp diễn lại một cuộc tranh-hùng như vậy, tuy rằng hình như Nguyễn Huệ có lúc muốn theo gương Lý Thường-Kiệt, nhưng vì chết yểu nên sự không thành.

Không biết câu ca-dao:

Nực cười châu-chấu đấu xe.
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng !

sinh ra đời nào. Nhưng nó có thể tóm-tắt, như hoạt-họa, khoảng lịch-sử oanh-liệt này của nước ta. Tuy về vật-chất, sự thắng-lợi của chính-sách Lý Thường-Kiệt chỉ có tính-cách tiêu-cực, nhưng về tinh-thần, thì trái lại, nó đã làm tăng thanh-thế nước ta lên nhiều, buộc Chiêm phải sợ và Tống phải nể.

Đối với Tống, sự thất-bại trong chính-sách nam-thùy có ảnh-hưởng rất lớn. Như ta đã thấy, ảnh-hưởng đầu tiên là cuộc tấn-công của Lý Thường-Kiệt làm cho kẻ chủ-mưu Vương An-Thạch bị đổ và kéo đổ theo cả một công-cuộc cách-mạng về tư-tưởng, chính-trị, tài-chính và kinh-tế của hoàn-cầu. Ảnh-hưởng thứ hai là người nối An-Thạch, là Ngô Sung, cũng vì thất-bại trong cuộc tấn-công ta, nên cũng bị gièm-pha và đổ.

Phê-bình chung về chánh-sách Tống ở nam-thùy, đã có lời Ngụy Thái, em vợ Tăng Bố, trong sách Đông-hiên bút lục. Thái viết : "Từ khi bọn Tiêu Chú đến kinh-lược Quảng-tây, hoặc nói dối-giá để lừa trên dưới, hoặc không phòng-ngữ dân ngoài, để đến nỗi bốn đồn-trại bị hãm. Quách Quì lại do-dự. Đến nỗi cũng không giữ nốt được Quảng-nguyên, cuối cùng phải bỏ đi. Dân bị bắt, thì mười phần chỉ thả được có một. Thế mà triều-đình tốn hàng vạn. Dân Lưỡng-Quảng từ đó phải khốn-đốn ". (ĐHBL 8)

Những kẻ chỉ có óc trào-phúng, không nghĩ rằng Tống Thần-tông phải trả đất Quảng-nguyên là không giữ nổi. Chúng chế-nhạo vua Tống bằng hai câu thơ (TT 1084) :

Nhân tham Giao-chỉ tượng,
Khước thất Quảng-nguyên kim.

Nghĩa là : "Vì tham voi Giao-chỉ, nên mất vàng Quảng-nguyên ". (6)

6.- Bang-giao thân-thiện (1079-1082)
Trả xong các đất Quảng-nguyên, Tống coi như đã trút được một gánh nặng trên vai. Vua Tống lấy làm đắc chí, thăng hàm cho viên coi Quế Châu là Tăng Bố. "Vì đã xếp-đặt việc Giao-chỉ xong-xuôi, nên Bố được suy ân " (8-11-K. Vi 1079, TB 301/5a). Nhưng ai cũng nhận thấy rằng cuộc chinh-nam đã làm tổn-hại binh-lực và thanh-danh Tống, mà không đem lại được một lợi-điểm nào. Triều-thần đều đổ lỗi cho Ngô Sung đã kiềm-hãm Quách Quì không để Quì tiến binh mau-chóng. Vì vậy Ngô Sung bị bãi chức tể-tướng (tháng 3, TB 303/1a), rồi chẳng bao lâu thì mất (tháng 4).

Đối với ta, vua Tống tỏ vẻ kính-nể. Tháng 9 nhuận năm ấy (1080), tăng thêm thực-ấp cho vua Lý (TB 309/2a). Ở nước ta, triều-đình rất vui-vẻ. Sử, như VSL, toàn chép những sự tốt lành trong mấy năm liền. Năm Kỷ-mùi 1079, được mùa to. Lạng-châu hiến voi trắng, công-chúa Thiên-Thành là vợ Thân Cảnh-Long, hiến rùa sáu mắt ba chân; "rồng vàng" hiện luôn luôn. Năm Canh-thân 1080, đúc chuông chùa Diên-hữu, (tức là chùa Một-cột). Sương cam lộ xuống. Vua đi xem đánh cá ở Cùng-giang, xem đua thuyền ở điện Linh-quang, đi xem gặt ở Lị-nhân, đặt lễ ban yến mùa thu. Người Tàu dâng cây tử-chi. Năm Tân-dậu 1081, ngày xuân, mặt trời có hai quầng. Sứ Chiêm-thành tới cống. Chỉ cómột điều làm bớt vui, là Lý Đạo-Thành mất vào tháng mười năm ấy (TT).

Đối với Tống, vua Lý vẫn tiếp-tục giao hiếu. Giữa năm Tân-dậu 1081, một phái-bộ được sai sang Tống, vừa để cống phương-vật (TB), vừa để xin kinh Đại-tạng (VSL). Phái-bộ nầy quan-trọng hơn thường, gồm đến 156 nhân-viên, và có Lương Dụng-LuậtNguyễn Văn-Bội (7) cầm đầu. Sợ quan địa-phương Tống làm khó dễ như trước, Lý Nhân-tông gửi biểu nói :

"Trước đây, tôi có sai bọn Đào Tông-Nguyên vào triều cống. Nhưng bị quan Quảng-châu cấm-chế, ngăn-cản, nên các thú-vật đem cống không cùng tới một lần được (XII/3). Nay tôi lại sai viên Lương Dũng-Luật, và viên trước tác-lang Nguyễn Văn-Bội đi thuyền tới cống. Xin giáng chỉ cho phép theo lệ cũ mà vào kinh. "

Vua Tống bảo viên quan coi Quảng-châu không được ngăn-cản, phải theo lệ cũ mà nhận sứ. Và dặn phải sai một viên nhập-nội-sứ-thần hộ-tống tới kinh (27-6, TB 313/11b). Viên chuyển vận-sứ Quảng-đông nói sứ ta xin đi đường Kinh-hồ. Vua Tống trả lời : "Nếu người Giao muốn đi đường thủy, thì ti kinh-lược Quảng-tây cứ theo đường cũ mà dẫn, chớ có đổi ". Tháng 7, TB 314/11a). Thế mà, viên kinh-lược Quảng-tây bấy giờ, là Trương Hiệt (thay Tăng Bố từ tháng 9 nhuận năm trước), nói : "Giao-chỉ vào cống có 156 người. Đối với lệ cũ thì thừa ra 56 người". Tống Thần-tông phê : "Ai đã đến đó thì cứ cho vào kinh. Về sau sẽ theo lệ cũ" (Tháng 8, TB 315/11b).

Tống hết sức làm vừa lòng vua Lý. Thấy sự giao-tiếp các công-văn với nước ta phiền-phức, vua Tống hạ chiếu cho ti kinh-lược Quảng-tây, nói rằng : "Từ nay hễ có chiếu ban cho An-nam, thì sai Khâm-châu báo tin cho đạo ấy. Đợi nó sai người đến biên-giới nghinh tiếp, rồi giao cho" (Tháng 12, TB 321/10a)

Dọc biên thùy, Tống tổ-chức lại để cho sự giao-dịch trở lại bình-thường. Từ tháng 5 năm Kỉ-mùi 1079, viên kinh-lược Quảng-tây, là Tăng Bố, đã sai các châu Khâm và Liêm lập lại các trạm, các bến-đò, để người nước ta sang buôn bán (TB 298/18a). Sau cuộc chiến-tranh, Ôn Cảo được bổ coi trại Hoàng-sơn. Năm 1082, có chiếu đổi Cảo coi Khâm-châu. Viên chuyển-vận phó-sứ Quảng-tây, Ngô Tiềm, sợ người nước ta oán Cảo mà sinh sự. Tiềm nói : "Gần đây sai Ôn Cảo coi Khâm-châu. Tôi trộm nghĩ rằng Giao-chỉ còn nghiến răng muốn ăn thịt Cảo. Sợ chẳng may, vì thế, chúng sẽ cướp". Vua Tống vốn không thích Cảo (IX/6), phê : "Cảo vốn tính nhu-nhược, mà lại có hiềm-thù với Giao-chỉ. Thật không nên ở chỗ cùng-biên can-trọng. Vậy sai viên kiềm-hạt Lưu Hi kiêm coi Khâm-châu." (TB 331/12b). Trái lại, Long Đạt, được bổ coi trại Vĩnh-bình, không chịu nhận chức, vì "đã coi các trại ở Ung-châu, y từng bị Giao-chỉ giết chết mẹ, vợ, con và em, nay không muốn gặp mặt chúng". Vua Tống cũng bằng lòng (TB 334/15b).

Xem các việc trên, ta thấy rằng vua Tống tránh những việc tuy rất nhỏ, nhưng có thể gây sự với nước ta.

7.- Đòi Vật-ác, Vật-dương. Lại Đào Tông-Nguyên
Sở-dĩ Tống dè-dặt với nước ta như vậy, là vì bấy giờ Tống còn phải đánh nhau với quân Hạ ở miền bắc, và vừa bị thua một trận to ở Vĩnh-lạc (Tháng 9 năm N. Tu 1082). Ở trong địa hạt Quảng-tây, cũng vừa có dân châu An-hóa nổi loạn. Các quan Tống vào dẹp, bị giết chết (Tháng 5, TB 326/20a). Loạn ấy kéo dài đến cuối năm chưa yên, làm vua Tống rất lo.

Thấy Tống lâm vào khó-khăn, và biết ý Tống Thần-tông không dám găng với nước ta, Lý Thường-Kiệt bắt đầu từ năm Nhâm-tuất 1082 trở lại chính-sách củng-cố và mở-mang bờ-cõi vào các khê-động Hữa-giang. Chính-sách dùng hôn-nhân để ràng-buộc thượng-du vẫn được tiếp-tục. Tháng hai năm ấy, vua Lý gả công-chúa Khâm-Thành cho Hà Di-Khánh châu-mục Vĩ-long, ở vùng châu Chiêm-hóa ngày nay (TT và VSL). Thường-Kiệt lại mưu sự lấy lại những đất, tuy thuộc Quảng-nguyên, nhưng đã bị các tù-trưởng đem nộp Tống trước khi có cuộc Tống Lý chiến-tranh. Trong những đất ấy, có hai động lớn, là Vật-dương Vật-ác.

Các sử-sách Tống và Việt đều có chép hai tên đất ấy, nhưng không chỉ rõ ở vùng nào. Nay góp-lặt những tham-khảo rời-rạc, ta có thể nhận ra rằng hai động ấy ở phía tây-bắc Cao-bằng ngày nay.

Từ đời Đường, các động ấy đều thuộc châu Quảng-nguyên, bởi họ Nùng cai-quản.

Hai tên Vật-dương Vật-ác thấy chép ở sử ta vào đời Nùng Trí-Cao. Ta đã thấy rằng (IV/3) Trí-Cao được vua Lý Thái-tông tha chết và cấp cho đất Quảng-nguyên và đất lân-cận như Lôi-hỏa, Bình, Tân (8), Bà, Tư-lang (1041). Bảy năm sau, Trí-Cao làm loạn, chiếm đất Vật-ác (TT và VSL, 1048). Bị quân Lý đánh, Trí-Cao chạy vào đất Tống, chiếm đất châu An-đức (TS 495 và TB 167/8a). Năm 1050, Trí-Cao lấy động Vật-dương, thuộc châu An-đức, lập nước Nam-thiên và lấy hiệu Cảnh-thụy (VSL) (9). Theo đó, ta biết rằng hai động kia ở trung-gian Cao-bằng và An-đức ngày nay.

Sau khi Trí-Cao mất, Nùng Tông-Đán coi đất Vật-ác. Theo lời viên kinh-lược Quảng-tây Hùng Bản tâu năm 1084 thì trong đời Gia-hữu (1057), Tông-Đán đem động Vật-ác nộp cho Tống, cùng các động khác là Lôi-hỏa, Kế-thành và Ôn-nhuận, rồi Tống đổi tên Vật-ác ra châu Thuận-an (TB 394/7b và V/8). Ta còn nhớ rằng bấy giờ, vua Lý Thái-tông đòi Tống giả người và đất. Vua Tống Anh-tông không chịu trả tụi Tông-Đán, nhưng chịu trả hai châu, và sai Tông-Đán coi châu Thuận-an mới lập.

Nói tóm lại, Lý mất động Vật-ác vào năm 1057, bởi vì Nùng Tông-Đán đem nộp cho Tống; Tống gọi đất ấy là châu Thuận-an.

Ta cũng đã thấy rằng cha con Nùng Tông-Đán theo Tống, nhưng vẫn là mối lo cho Tống. Phải đợi năm 1064, Tống-Đán mới vào ở Đất Tống. Năm ấy viên coi Quế-châu, Lục Sằn, tới vùng Hữu-giang dụ các khê-động. Không những tụi Tông-Đán theo, mà còn có tụi Nùng Trí-Hội cũng theo. Trí-Hội là dòng dõi Nùng Dân-Phú, tri-châu Quảng-nguyên đời Nam-Hán (IV/3). Đó là theo lời Lưu Sơ coi Ung-châu (TB 349/7a). Lại theo lời Hùng Bản, trong đời Trị-bình (1064), Nùng Trí-Hội đem động Vật-dương theo Tống, được vua Tống đổi tên cho động ấy ra châu Qui-hóa (TB 349/7b). Trí-Hội rất trung-thành với Tống. Năm 1073, Ôn Cảo giúp việc ti kinh-lược Quảng-tây có tâu xin tăng hàm cho. Cảo nói : "Đã có chiếu bổ tụi Nùng Tôn-Đán và Nùng Trí-Hội làm tướng quân. Nhưng man-di không biết chức ấy là gì, chúng muốn xin một chức ở hàng cao, như phó-sứ. " Tống Thần-tông ban cho chúng hàm cung-bị-khố phó-sứ, Tông-Đán làm đô-giám Quế-châu và Trí-Hội coi châu Qui-hóa (TB 244/3b).

Ta cũng đã thấy rằng Trí-Hội chặn đường từ Quảng-nguyên đi Đặc-ma, cản-trở việc Lưu Kỷ đi mua ngựa ở đó. Cho nên tháng tư nhuận Ất-mão 1075, Lưu Kỷ đã đem quân đánh châu Qui-hóa (VII/3). Tống giúp Trí-Hội chống Lưu Kỷ, nên Trí-Hội giữ vững châu mình. Sau lại được phong chức văn-tư phó-sứ (TB 298/4b). Năm 1079, Nùng Trí-Xuân cùng Ma Thuận-Phúc họp nhau đánh quân Tống coi Quảng-nguyên, Trí-Hội lại mang quân tới cứu quan Tống (XII/4). Vua Tống bèn ban thưởngvà thăng lên chức cung-uyển phó-sứ, và cấp cho toàn bổng, vì "Trí-Hội tuổi già và đã có công" (TB 302/8a). Xem vậy, ta thấy rằng từ khi hàng Tống vào năm 1064, Trí-Hội vẫn trung-thàng với Tống. Châu Qui-hoá, mà y vẫn quản-lĩnh, là đất cũ Vật-dương của Lý. Trong khoảng mười sáu năm, Lý chưa có dịp nào để đòi lại đất ấy.

Đất Qui-hóa ở đâu ? Theo lời viên coi Ung-châu, là Lưu Sơ, thì khi Lưu Kỷ nộp đất Quảng-nguyên cho Tống (1076-1077), "triều-đình lấy châu Thông-nông cho Trí-Hội" (TB 349/7a). Như vậy nghĩa là vua Tống lấy đất Thông-nông thuộc Quảng-nguyên thưởng cho Trí-Hội, để thêm vào đất Qui-hóa của y đã có. Sử Lý cũng có chép tên đất Thông-nông ấy vào đời Lý Anh-tông (Dương Tự-Minh đánh Đàm Hữu-Lạng ở đó vào năm 1145, TT), và nói rõ rằng châu ấy thuộc Quảng-nguyên. Nay ở làng Xuân-lĩnh, gần Nước-hai (Cao-bằng), còn có đền Quan-triều thờ Dương Tự-Minh, và ở phía tây tỉnh Cao-bằng, còn có làng và tổng Thông-nông. Vả chăng viên coi Quế-châu, là Hùng Bản, có nói : "Các châu Qui-hóa, Thuận-an là đất cổ-họng của Hữu-giang, chế-ngự các đường trọng-yếu đi các nước Giao-chỉ, Đại-lý, Cửu-đạo-bạch-y". Xét các chứng trên, ta có thể nhận rằng động Vật-dương hay châu Qui-hóa ở phía bắc tổng Thông-nông ngày nay, tức là ở vào địa-phận châu Qui-thuận và Trấn-an, kề phía bắc các địa phận Sóc-giang Bảo-lạc ở địa-đồ của sở họa-đồ Đông-dương.

Còn đất Vật-ác hay châu Thuận-an cũng kề đất Vật-dương, kề đất An-đức và đất Lôi-hỏa. Nay tên An-đức hãy còn trong hạt châu Qui-thuận của Trung-quốc. Tên châu Lôi-hỏa không còn. Nhưng còn có Hóa-động ở trên đường quan-lộ nối phủ Trùng-khánh thuộc Cao-bằng với châu Qui-thuận. Vả các sách Tống có chép tên động Lôi-hóa làm Hỏa-động (TB 185/8b). Hỏa-động gần Hồ-nhuận cũng như Hóa-động gần Ôn-nhuận. Ta có thể đoán rằng Hóa-động ngày nay là Hỏa-động hay Lôi-hỏa đời Lý, vào đất Vật-ác hay châu Thuận-an ở khoảng giữa Hóa-động và An-đức ngày nay.

Nói tóm lại, động Vật-dương là đất Nùng Trí-Hội nộp Tống vào năm 1064 và được Tống đổi tên ra Qui-hóa ; động Vật-ác là đất Nùng Tông-Đán nộp Tống từ năm 1057 và được Tống đổi ra châu Thuận-an. Hai động này ở phía bắc biên-thùy huyện Thạch-lâm tức là phần tây-bắc Cao-bằng, và thuộc các châu Trấn-an và Qui-thuận của Trung-quốc. Phải chăng tên Qui-thuận là lấy hai chữ đầu hai châu Qui-hoá, Thuận-an mà đặt ra ?

Tháng 6 năm Nhâm-tuất 1082, vua Lý sai một phái- bộ đem 50 sừng tê và 50 ngà voi sang cống vua Tống. Đó là theo TB (327/15b). Sách ấy có chú-thích rằng : " TL tân-kỷ chép rằng ngày Nhâm-thân 22 tháng 6, Giao-chỉ cống hai con tê nuôi, nhưng Cựu-kỷ không chép." Nay Tống-sử (TS 16) cũng chép như Tân-kỷ. Vừa năm trước đã có cống-bộ Lương Dũng-Luật tới Biện-kinh. Vậy cống-bộ năm nay không phải là theo thường-lệ. Hình như cũng không có sứ-giả tới kinh. Mục-đích lần nầy là để đòi dân Quảng-nguyên mà Tống đã đem vào ở trong đất Tống. Lời biểu của Lý nói (TB327/15b) :

"Thủ-lĩnh động Cát-đán thuộc Quảng-nguyên, là Nùng Dũng, cùng dân động đã làm loạn và chạy vào Ung-châu. Tôi đã viết thư nhiều lần vào đòi. Nhưng Ung-châu không chịu trả."

Vua Tống trả lời : "Tụi Nùng Dũng nguyên không phải Giao-chỉ quản. Chúng theo ta khi Giao-chỉ chưa hàng. Vậy chúng là dân ta. Không lẽ gì ta trả chúng."

Theo lời Tống, ta hiểu rằng bọn nầy theo Tống khi quân Yên Đạt đánh Quảng-nguyên. Trước lúc trả Quảng-nguyên, Tống đem dân châu ấy vào ở Tả-giang và Hữu-giang, như ta đã thấy (XII/4). Chắc bọn Nùng Dũng ở trong đám dân ấy. Nhưng không hiểu vì sao Lý chỉ đòi dân động Cát-đán mà thôi. Có lẽ Cát-đán là Cốc-đán (Cát Cốc đồng một nghĩa là tốt, như trong quán-thoại cát-nhật hay cốc-nhật), ngày nay ở góc tây-nam Cao-bằng. Cát-đán ở phía nam Thông-nông mà Nùng Trí-Hội còn chiếm.

YÙ Thường-Kiệtlà khôi-phục lại các đất mà Trí-Hội còn giữ. Thái-độ Lý coi chừng đã găng. Ti an-phủ Quảng-tây đòi trả thêm các quan-lại và đàn bà bắt ở ba châu Ung, Khâm, Liêm. Sứ ta trả lời không có nữa (TB 349/7a). Viên chuyển-vận phó-sứ Quảng-tây, Ngô Tiềm, nói : "Gần đây, nghe nói Giao-chỉ nhiều lần vào đòi dân Hữu-giang. Tôi đã cùng bàn chuyện với những người am-hiểu việc Giao-chỉ, và thử đoán ý chúng. Ai cũng đều nói rằng trong dăm ba năm nữa, chúng sẽ tới cướp. Vậy xin huấn-luyện thổ-đinh ở Quảng-tây để phòng-bị." (22-6, TB 327/26a)

Tin nầy và tin dân An-hóa ở Nghi-châu nổi loạn làm cho vua Tống lấy làm lo. Tuy Hùng Bản đã có lệnh triệu về kinh, bấy giờ cũng phải trở lại coi Quế-châu thay Trương Hiệt (8-7 năm N. Tu 1082, TB 328/4b). Ngô Tiềm lại xin đem 500 quân kỵ ở Thiểm-tây xuống đóng ở Quế-châu (2-8, TB 329/1b).

Ngô Tiềm lo, không phải là không đúng. Tháng 9 năm ấy, Lý Thường-Kiệt sai châu-mục châu Thượng-nguyên, là Dương Thọ-Văn (vùng Bắc-cạn), đem quân đánh Nùng Trí-Hội ở châu Qui-hóa, và toan đánh vào châu Thuận-an (TB 349/7a). Nùng Trí-Hội thua chạy vào Hữu-giang cầu cứu (346/4b). Hùng Bản tâu về triều nói : "Đời Gia-hữu, Nùng Tông-Đán đem các động Vật-ác nộp, vua ban tên Thuận-an. Đời Trị-bình, Nùng Trí-Hội đem động Vật-dương nộp, vua ban tên châu Qui-hóa. Nay các châu động họ Nùng cai quản, vốn không phải thuộc xứ Nam-bình (Giao-chỉ). Mà các châu Qui-hóa là đất chẹn cổ-họng của Hữu-giang; chế-ngự các đường quan-yếu đi Giao-chỉ, Đại-lý, Cửu-đạo-bạch-y. Vậy xin hạ chiếu cho Giao-chỉ, hỏi vì sao đã xâm-phạm châu Qui-hóa, và bảo trả lại tất cả các sinh-khẩu mà chúng đã cướp. Như thế mới dứt được lòng ác của chúng, khi nó chưa sinh." (TB 349/7b)

Trong lúc ấy, ở triều Lý, vua Lý đã trưởng-thành và tự cầm quyền. Vua lập một quân ở Thanh-hóa, giao cho Lý Thường-Kiệt (XIII/2). Có lẽ vì lý-do đó, thái-độ của Lý bấy-giờ không cương-quyết như trước nữa.

Hùng Bản sai sứ mang thư trách vua Lý. "Lý Càn-đức tạ-tội, bèn rút quân về", nhưng vẫn xin Tống trả đất Vật-dương, Vật-ác.

Bản là một nho-thần, xuất thân tiến-sĩ. Tính điềm-tĩnh, đến đâu cũng không hay sinh sự. Thường dùng chính-sách ôn-hòa đối-đãi với dân. Nhờ thế, mà loạn An-hóa không lan rộng. Nay thấy nước ta găng, Bản tuy viết thư trách, nhưng xin Tống Thần-tông trả cho Lý tám động đất hoang (TB 346/4b), rồi hẹn với vua Lý phái người tới Vĩnh-bình bàn cương-sự.

Tháng 6 năm Quí-hợi 1083, Hùng Bản phái viên đô-tuần-kiểm Tả-giang là Thành Trạc và viên coi lò vàng Điền-nại là Đặng Khuyết đến Vĩnh-bình (TB 335/13a, TB 349/6a chép Đặng Tịch). Vua Lý phái Đào Tông-Nguyên đến bàn-nghị.

Sứ ta muốn đòi lại hai châu Vật-dương và Vật-ác, mà Tống chỉ muốn trả một dải đất ở phía nam dãy núi Hỏa-diễm mà thôi. Đào Tông-Nguyên vẫn giữ thái-độ găng. Cuối cùng Tông-Ngyên đề-nghị :

"Đất thuộc Quảng-nguyên nầy chỉ là đất nhỏ. Khó lòng mà bán chia. Tôi muốn tự làm bài tâu, để rồi triều-đình định bằng lòng hay không." (TB 339/2a).

Ta có thể coi lời sứ ta như một tối-hậu-thư ! Tất-nhiên, Thành Trạc không bằng lòng. Đào Tông-Nguyên bỏ hội-nghị về.

Ngày mồng 2 tháng 9 (Năm Q. Ho 1083), ti kinh-lược Quảng-tây tâu lời Đào Tông-Nguyên nói với quan Tống, và báo rằng y đã về nước. Vua Tống không bằng lòng lời ấy, nhưng lại trách quan Tống; cho nên hạ chiếu nói : "Hùng Bản chỉ-huy các viên bàn cương-sự. Như có hội-nghị với Đào Tông-Nguyên, thì đưa cho nó xem rõ văn-tự của Triều-đình. Đừng có lấy lý-lẽ bắt-bẻ, thương-lượng cãi nhau, mà để chúng ra ý khinh-nhờn" (TB 339/2a).

8.- Phái-đoàn Lê Văn-Thịnh
Hội-nghị Vĩnh-bình thất-bại. Tình-thế dọc biên-thùy trở lại găng. Vua Lý lại sai tập-trung quân gần châu Qui-hóa. Ngày 25 tháng chạp năm ấy (Q. Ho 1083), ti kinh-lược Quảng-tây nói : "Châu Qui-hóa báo rằng Giao-chỉ tụ-binh, muốn trở lại lấy châu mình. Trước đây, lấy cớ đuổi bắt Nùng Trí-Hội, Giao-chỉ đã xâm châu Qui-hóa. Nay, tuy đã về giữ sào-huyệt, nhưng vẫn có ý dòm-ngó. Nay Trí-Hội lại nói rằng nếu Giao-chỉ tới thì khó lòng ngăn, và chúng sẽ lập-tức vào đất ta. Trí-Hội đã không hay kiên-quyết chống Giao-chỉ; nếu nay để nó ở đó, thì không tránh khỏi sự Giao-chỉ cướp đất ta". Vua Tống hạ chiếu rằng : "Hùng Bản hãy hiểu-dụ rõ-ràng cho Trí-Hội, bảo nó dời nhà vào nội-địa. Rồi sai lo-liệu giữ chắc những đường ải quan-trọng ở Qui-hóa. Nếu Giao-chỉ lại kéo quân tới, tức là vô-cớ vào đất ta. Ngươi có thể viết thư hỏi tội." (TB 341/18b)

Các viên-chức ở Quế-châu phần-nhiều lo lắng. Viên chuyển-vận phó-sứ Ngô Tiềm chỉ vì nói Giao-chỉ muốn vay gạo, mà ti đề điểm-hình-ngục cũng hặc (TB 331/10a, tháng giêng Q. Ho 1083). Viên sai-quan Hồ Cách chỉ có công cãi-cọ hăng với Đào Tông-Nguyên mà cũng được giữ lại không phải về hưu (tháng 8, TB 338/11b). Một mình viên kinh-lược Hùng Bản vẫn điềm-nhiên. Có lúc thám-tử về báo rằng : "Sang năm, Giao-chỉ sẽ vào cướp. Sứ Giao-chỉ cũng nhận là đúng ". Vua Tống hỏi ý Bản. Bản trả lời : "Sứ An-nam còn ở trên đường, không thể có chuyện ấy. Sứ-giả có mưu-trí, sao lại nói cho ta biết trước mưu mình. " (TS 334 và TB 346/4b)

Lý cũng không muốn có ý đoạn-tuyệt sự thương-thuyết. Tháng 6 năm Giáp-tý 1084, vua Lý sai viên lang-trung binh-bộ Lê Văn-Thịnh và Nguyễn Bội (7) tới Vĩnh-bình, tiếp-tục bàn-nghị việc biên-cương mà Đào Tông-Nguyên đã bỏ dở gần một năm qua (TT và VSL). Lê Văn-Thịnh là kẻ đậu khoa nho-học đầu tiên ở nước ta (A. Ma 1075). Ông lại được vào cung dạy vua Lý Nhân-tông từ thủa bé. Chắc ông là một tay ứng-đối giỏi nhất ở triều, cho nên được chọn sung vào sứ-mệnh này.

Lúc đầu hai bên bàn-cãi gay-go. Sứ ta không chịu nghe lời Tống. Tống vẫn nghi ta muốn sinh sự. Tháng 7, khu-mật-viện nói : "Sứ Giao-chỉ còn biện-nghị cương-chí, hoàn-toàn chưa chịu nghe mệnh. Sợ rằng ở biên-thùy còn phải phòng-bị ". Vua Tống chiếu : "Hùng Bản phải lo-liệu sự phòng-ngự ở các thành, trại, dọc biên-thùy. Phải hết sức chú-ý xếp đặt Thi-hành thế nào thì tâu về " (TB 347/15b)

Đến tháng 8, hội nghị đã có cơ thành công. Tuy Hùng Bản đã được thăng lên chức thị-lang lại-bộ từ tháng 6, nhưng còn phải đợi xong việc biện-chính địa-giới rồi mới về kinh. Bấy giờ, Bản được lệnh gọi về. Miêu Thì-Trung được bổ thay Bản. Ngày 16 tháng 8, vua Tống nói : "Cứ theo báo cáo, thì việc Giao-chỉ bàn cương-chí xem đã có cơ xong. Thì-Trung am-hiểu man-di ở phương ấy. Không nên để Thì-Trung xử việc biên-cương dưới quyền Hùng Bản. Và Bản đã có lệnh đổi; sợ không có trách-nhiệm nên không chịu làm việc ấy. Vậy giục Thì-Trung thôi đừng đợi bàn-gia, lấy ngựa trạm mà đi chóng tới nhậm-sở. " (TB 348/6b)

Hội-nghị Vĩnh-bình lần thứ hai này ra sao ? Hai bên thỏa-thuận những điều gì ? Các sử ta nói rất đơn-sơ. Sách TT chỉ chép vẻn-vẹn rằng : "Định biên-giới. Tống lấy sáu huyện, ba động trả ta ". Sách ấy lại dẫn câu thơ người Tống cười triều-đình tham voi Giao-chỉ, mất vàng Quảng-nguyên vào đây (10). Tống-sử chép rõ hơn, nhưng cũng rất vắn-tắt. Nay góp-lặt những việc tản-mát trong TB, ta có thể kể lại việc ấy khá tường-tận như sau.

Mục-đích cuộc hội-nghị là bàn cương-giới thuộc hai đất Vật-dương và Vật-ác, hoặc theo Tống, là bàn cương-giới hai châu Qui-hóa và Thuận-an (TS 16 và TB 349/6a). Bên Tống, Thành Trạc đứng đầu phái-bộ; có lẽ vẫn có viên coi lò vàng Đặng Khuyết giúp. Bên Lý, ngoài chánh-sứ Lê Văn-Thịnh còn có Nguyễn Bồi (TB 349/8a), có lẽ là người đã đi cùng ào Tơng-Ngyên tới Biện-kinh sáu năm về trước. Hội-nghị họp trong tháng bảy năm ấy (G. Ty 1084).

Văn-Thịnh biện rõ rằng hai châu Qui-hóa và Thuận-an nguyên là đất Vật-dương và Vật-ác của nước ta, đã bị các tù-trưởng lấy trộm đem nộp Tống. Một phái-viên Tống nói : "Những đất mà quân nhà vua đã đánh lấy, thì đáng trả cho Giao-chỉ. Còn những đất, mà các người coi giữ, lại mang nộp để theo ta, thì khó mà trả lại. "

Văn-Thịnh trả lời : "Đất thì có chủ. Các viên coi giữ mang nộp và trốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không tha-thứ được, mà trộm của hay tang-trữ thì pháp-luật cũng không cho phép. Huống chi nay, chúng lại mang đất trộm dâng, để làm nhơ bẩn sổ-sách nhà Vua ! " (TB 349/7b)

Câu trả lời ấy chắc đã làm mếch lòng người Tống. Nhưng sau nầy, vua Tống từng khen Văn-Thịnh biết khiêm-tốn. Có lẽ Thành Trạc không giám thuật lại câu trên chăng. Sách TB chép câu ấy, chỉ nói rằng có kẻ nói như trên, rồi Văn-Thịnh trả lời như vậy. YÙ TB là nói rằng câu chuyện trên do người ta mách lại, chứ không phải là câu ghi trong biên-bản. Vì Văn-Thịnh găng, cho nên mới có lệnh bảo Quảng-tây phải đề-phòng, như đã kể trên.

Sau đó, không rõ rằng có huấn-lệnh bảo Văn-Thịnh bớt găng, hay tự ông nhún-nhường chăng. Kết-quả là Thành Trạc buộc rằng Văn-Thịnh đã nói : "Tôi không giám tranh chiếm các châu động mà Nùng Trí-Hội và Nùng Tông-Đán đã nộp " và : "Như Thành-Trạc đã bàn về các động Vật-dương và Thuận-an, định vạch cương-giới ở phía nam đất ấy, thì kẻ bồi-thần nầy không giám cãi. " (TB 348/8a)

Sự thật chứa trong bức thư mà Văn-Thịnh gửi cho Hùng Bản. Thư ấy nói rằng :

" Thành Trạc đã nói sẽ vạch địa-giới ở phía nam mười tám xứ sau nầy : Thượng-điện, Hạ-lôi, Ôn-nhuận, Anh, Dao, Vật-dương, Vật-ác, Kế-thành, Cống, Lục, Tần, Nhâm, Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện (11), và nói những xứ ấy đều thuộc Trung-quốc. Bồi-thần tiểu-tử nầy, chỉ biết nghe mệnh, không giám cãi lại. Nhưng những đất ấy, mà họ Nùng đã nộp, đều thuộc Quảng-nguyên.

"Nay, may gặp Thánh-triều ban-bố hàng vạn chính-lệnh khoan-hồng. Sao lại chọn miếng đất đầy đá-sỏi, lam-chướng nầy, mà không cho lại nước tôi, để giúp kẻ ngoại-thần. " (TB 349/7b)*

Đọc lời thư trên, ta thấy rằng Lê Văn-Thịnh không bằng lòng đề-nghị của Thành Trạc. Nhưng biết rằng cãi nhau với Trạc cũng vô-ích, và muốn dùng lời nhún-nhường khéo-léo để lay-động những kẻ cầm-quyền ở thượng-cấp.

Thành Trạc hoặc tự xuyên-tạc ý Văn-Thịnh, hoặc không hiểu rõ, lại tâu về triều rằng Văn-Thịnh không đòi đất Vật-dương và Vật-ác nữa. Và xin vua Tống giáng chiếu theo lời Trạc đề-nghị. Vua Tống sai Hùng Bản xét lại những công-điệp và những điều diện-nghị của Văn-Thịnh, thì thấy lời tâu của Trạc không đúng.

Ngày 7 tháng 8 năm ấy (G. Ty 1084), vua trách rằng : "Đã sai Hùng Bản bảo Thành Trạc bày-tỏ những công-điệp và những điều diện-nghị của Lê Văn-Thịnh. Trong đó không thấy nói đến câu không giám tranh-chiếm đất Nùng Tông-Đán nộp. Thế mà Trạc lại nói chúng nó đã nghe lời. Thế thì căn-cứ vào đâu để xin giáng-chiếu gia-ân. "

Mười ngày sau, Tống lại tiếp được lời tâu của Hùng Bản nói : "Thành Trạc thưa rằng trong điệp Lê Văn-Thịnh có nói : "Khê-động nhỏ mọn ấy, nếu Trạc nhận là đất của Tống, thì xin để tôi bày-tỏ với nha kinh-lược, nhờ tâu về triều, và xin triều-đình định-đoạt. "

Chính lúc ấy, Văn-Thịnh đưa cho Hùng Bản bức thư đã thấy trên. Vua Tống nói : "Muốn sai Hùng Bản xét kỹ-càng những lời Thành Trạc tâu về từ trước. Hoặc là nếu quan kinh-lược mới đã tới, thì hãy xét tường-tận những công-điệp và lời đối-đáp của Văn-Thịnh. Như có chấp-cứ được, thì vạch rõ ra mà theo; để từ rày về sau, hễ người Giao-chỉ nhận được chiếu, thì không thể phản-phúc nữa. Vậy phải trình về cho rõ."

Ba ngày sau, là ngày 20 tháng 8, Tống lại tiếp được một báo-cáo khác của Hùng Bản nói : "Thành Trạc trình rằng : "Theo công-điệp của Lê Văn-Thịnh, thì bằng lòng vạch địa-giới ở phía nam các châu Vật-dương và Thuận-an. " Vậy xin bàn nên phụng chỉ ban chiếu-thư, cấp cho Giao-chỉ tám-xứ ở ngoài ải, và ban cho Lê Văn-Thịnh và Nguyễn Bồi đồ-vật."

Lại ba ngày sau nữa, vua Tống nhận được báo-cáo cuối cùng của ti kinh-lược Quảng-tây gửi về nói : "Trước đây, bản-đạo chưa rõ đầu đuôi việc hai châu Qui-hóa và Thuận-an. Vì thế, đã sai viên-chức ti kinh-lược tới biện-chính, và đạt chiếu cho Càn-đức bảo người tới chia đất. Nay cứ ti kinh-lược Quảng-tâu tâu, thì ti đã sai Thành Trạc biện-chính với sai-quan Giao-chỉ là Lê Văn-Thịnh. Bây giờ, đã thấy rõ đầu đuôi. Vậy xin giáng chiếu. ".

Vua Tống bèn phê rằng : "Nay An-nam đã bằng lòng phân-hoạch xong-xuôi, thì hãy đem các đất sáu huyện Bảo-lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phỏng, Cận và hai động Túc, Tang (12) ở ngoài-ải Khấu-nhạc, giao cho Giao-chỉ thủ-lĩnh. Cứ theo đó mà giáng chiếu. Bảo viện học-sĩ theo đó mà thảo lời chiếu. Đợi ti kinh-lược Quảng-tây khám xong tên các ải, rồi sẽ viết chiếu. Còn như bọn Lê Văn-Thịnh, thì ban vải vóc để may áo : cho Lê Văn-Thịnh 200 tấm, và Nguyễn Bồi 100 tấm. " (13)

Những chi-tiết lời trình của Quảng-tây và lời chiếu của Tống Thần-tông chép lại trên đây là theo Thời-chính-kỷ của viện khu-mật (xem TB 349/8a). Ta thấy rằng, từ mồng 7 đến 23 tháng 8, viện khu-mật nhận được bốn tờ trình của Hùng Bản. Vì đường trạm đi từ Vĩnh-bình đến Biện-kinh mất chừng một tháng, ta doán rằng hội-nghị Vĩnh-bình nhóm suốt trong tháng bảy, và những chỉ-thị của vua Tống, trả lời các tờ trình ấy, không tới kịp Quảng-tây, trước khi hội-nghị bế-mạc. Vậy thì sự định cuối-cùng của vua Tống chỉ căn-cứ vào lời trình khi đầu của Thành Trạc, chứ không căn-cứ vào bức thư của Lê Văn-Thịnh. Vua Tống tin rằng Văn-Thịnh đã bằng lòng nhận những đề-nghị của Thành Trạc, và vua Lý chịu mất Vật-dương và Vật-ác.

Ngày 22 tháng 10, sau khi ti kinh-lược Quảng-tây đã khám rõ tên các ải, dùng làm cận cho biên-thùy, vua Tống sắc cho vua Lý lời nghị-định sau :

"Sắc cho Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-đức :

"Trẫm đã xét lời ti kinh-lược Quảng-nam tây-lộ tâu về nói : "Trước đây, vì An-nam tâu kêu rằng cương-chí các khê-động thuộc hai châu Vật-ác, Vật-dương chưa được rõ, đã có triều-mệnh sai bản-ti lo-liệu. Bản-đạo đã sai quan-chức biện-chính. Nay được tin báo An-nam dã sai bọn Lê Văn-Thịnh tới biên-giới, và biện-chính đã xong. Vậy xin giáng chiếu-chỉ để trao cho An-nam theo làm. "

" Trẫm đã xem xét các lời Khanh trần-tình về phong-cương. Trẫm đã đặc-biệt sai biên-thần lo-liệu biện-chính. Khanh vốn được Trẫm yêu-mến. Giữ một lòng trung-thuận, Khanh đã vâng chiếu-chỉ, sai chức thuộc đến chia cõi các châu, động. Nay đầu-đuôi đã được rõ-ràng.

" Về hai động Vật-dương và Vật-ác, Trẫm đã giáng chỉ lấy tám ải sau này làm giới hạn : Canh-liệm, Khâu-cự, Khiếu-nhạc, Thông-khoáng, Canh-nham, Đốn-lị, Đa-nhân và Câu-nan. Đất ngoài các ải ấy có sáu huyện là Bảo-lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng, Cận và hai động là Túc, Tang. Các đất ấy đều cho Khanh chủ-lĩnh (12).

" Khanh hãy xem đó biết Trẫm luyến-ái. Khanh càng phải cung-thuận, tuân theo cẩn-thận điều-ước về cương-giới, chớ có xâm lấn." (Ngày M. Ty, DL 22 11 1084; TB 349/6a)

Thế là Tống Thần-tông đã quyết-định theo lời đề-nghị từ đầu của Thành Trạc, mà không chấp lời xin của Lê Văn-Thịnh trong công-điệp gửi cho Hùng Bản. Tuy có ban cho Lý đất sáu huyện và hai động, nhưng hai châu Vật-dương và Vật-ác vẫn bị Tống giữ, vì Thàng Trạc đã nói rõ là vạch cương-giới ở phía nam mười tám xứ, trong đó có Vật-ác và Vật-dương.

9.- Lý cố nài. Tống quyết từ
Sự quyết-định ấy của vua Tống Thần-tông tạm chấm dứt lịch-sử điều-đình giữa Tống và Lý, nó bắt đầu từ tháng giêng năm Đinh-tị 1077, là khi Tống rút quân khỏi bắc-ngạn sông Nam-định về. Ở triều Lý, chính-sách ngoại-giao từ lúc ấy đến năm Nhâm-tuất 1082 hoàn-toàn bởi tay Lý Thường-Kiệt điều-khiển. Từ năm Nhâm-tuất về sau, vua Lý đã trưởng-thành và đã tự mình coi việc nước. Còn Lý Thường-Kiệt đi ra giữ trấn Thanh-hóa. Cho nên nếu ông còn có ảnh-hưởng ở triều, thì ảnh-hưởng ấy không lớn như trước nữa. Tuy vậy, các nho-thần như Lê Văn-Thịnh cũng không đi trái với chính-sách mà Thường-Kiệt đã vạch rõ trong mười năm rồi. Có khác chăng, chỉ là bớt phần cương-quyết.

Nhận được chiếu của vua Tống, vua tôi Lý không lấy làm hài lòng. Nhưng hình như họ cũng còn do-dự trong cách đối-phó. Lý không trả lời lập-tức. Tống yên-trí là Lý nhận lời. Sáu tháng sau, ở Tống, vua Triết-tông lên ngôi. Vua Lý được gia phong chức đồng-trung-thư môn-hạ bình-chương sự (11 tháng tư năm Ất-sửu 1085, TB 354/4b).

Việc chia địa-giới cũng là việc cuối-cùng Tống Thần-tông làm đối với nước ta. Thần-tông mất ngày Mậu-tuất mồng 5 tháng 3 năm ấy (DL 1-4-1085, TB 353). Triết-tông lên ngôi, mới mười tuổi. Quốc-chính ở trong tay thái-hoàng-thái-hậu họ Cao. Thái-hoàng-thái-hậu trước vẫn ghét Vương An-Thạch và đồng-đảng. Cho nên lập-tức đem phái cựu lên giúp việc. Lã Công-Trứ, Tư-mã Quang, Trình Di đều được trọng-dụng. Các đảng-nhân tân-pháp đều bị tội hay bị biếm. Triều-đình Tống cố-tâm xóa bỏ những sự mà Vương An-Thạch đã làm nên. Đối với các nước ngoài, Tống tỏ thái-độ rất cương-quyết, "để rửa những cái nhục của đời Thần-tông."

Lý vin vào cơ-hội mới, lại gửi thư sang vua Tống mới, xin đổi lời chiếu cũ về hai động Vật-dương và Vật-ác. Viện khu-mật tâu : "Nên giáng chiếu, nhắc lại chiếu-chỉ của Tiên-triều, và bảo Càn-đức phải tuân theo ".

Ngày 24 tháng 6, Tống trả lời không nhận lời xin của vua Lý. Lời chiếu có giọng cương-quyết như sau :

"Ban cho Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-đức chiếu sau này.

"Trẫm đã xét kỹ lời biểu của Khanh xin cương-thổ các động Vật-ác, Vật-dương. Đời Tiên-đế, Khanh đã bày-tỏ việc cương-giới. Tiên-đế đã giáng chiếu-dụ, đầu đuôi rõ ràng. Đã đặc-biệt theo lời Khanh cầu, mà cắt đất cho. Nay Trẫm đọc lời tâu, bất ngờ còn thấy Khanh bày-tỏ kêu-ca điều ấy.

"Trẫm vừa nối nghiệp, hành-động phải theo mệnh trước. Nghị-định trước đã rõ, nay khó lòng mà đổi được. Khanh phải trung-thuận, nhất-nhất phải tuân theo lời chiếu trước." (TB 357/16a).

Đó là Lý cố nài, và Tống quyết-từ lần thứ nhất.

Vua Lý được chiếu, chắc lấy làm tức-giận. Nhưng không hề đổ lỗi cho Lê Văn-Thịnh đã vụng bàn. Tháng 8 năm ấy (A. Su 1085), Văn-Thịnh được cất lên chức thái-sư, tức là đứng đầu triều-đình. Trái lại, vua Lý tức Tống đã bất-chấp lời cố nài của mình. Cho nên Lý lại muốn dùng binh lực quấy-nhiễu. Bấy giờ, có Nùng Thuận-Thanh coi động Nhâm, bị cha con Lương Hiền-Trí chiếm đất. Thuận-Thanh đánh lại (TB 402/10b). Viên coi châu Quảng-nguyên, là Dương Cảnh-Thông, nhân đó thông với Thuận-Thanh. Bèn sai bọn Đàm An đem quân vào đánh biên-dân ở Tống. Ngày mồng 2 tháng giêng năm Bính-dần 1086, vua Tống hạ chiếu cho ti kinh-lược Quảng-tây bảo phải xét việc ấy, và gửi thư trách vua Lý "hỏi vì cớ gì mà không chịu theo chiếu sắc ". (TB 364/1a)

Lý Nhân-tông trả lời và nhắc chuyện xin đất. Nhưng lần này, đổi lý-lẽ và mưu-mẹo. Biết rằng nếu nhắc lại sự biện-chính cương-chí trước, thì Tống vin vào chiếu cũ mà trả lời thoái-thác. Lý Nhân-tông mượn sự vua Tống mới lên ngôi mà xin đổi mới chính-sách đối với hai đất Vật-ác, Vật-dương. Lý bèn gửi biểu sau này sang Tống, lời-lẽ khá khôn-ngoan :

"Ấp tôi có tám huyện ở hai động Vật-dương, Vật-ác, giáp với đất nhà vua. Trước sau bị các tù trưởng làm loạn mà bỏ đi, đem mình vào qui-minh. Đất Vật-dương thì năm Bính-thìn (1076) được thu vào vương-thổ, đất Vật-ác thì năm Nhâm-tuất (1082) mới được thu và đặt ải Thông-khang (14).

"Tuy đất ấy là nhỏ-nhen nhưng tôi rất lấy làm đau-xót, luôn-luôn nghỉ đến. Thật tổ-tiên tôi ngày trước đã đánh-dẹp những kẻ tiếm-nghịch; xông-pha gian-hiểm mới có đất ấy. Nay gặp thời-vận suy-đồi, tôi không hay nối sự-nghiệp cha ông. Tôi đâu giám dự vào hàng phiên-thần, sống trong chốc-lát.

"Năm Giáp-tý (1084), ti kinh-lược Quảng-tây đã từng tâu về việc ấy. Tiên-triều lấy hai động Túc, Tang và sáu huyện cho tôi chủ-lĩnh. Nhưng các đất Túc, Tang ấy hiện thuộc ấp tôi rồi, không phải là đất mà nay tôi đã xin. Cho nên tôi không giám nhận mệnh.

"May gặp khi Bệ-hạ lên ngôi. Việc gì cũng đổi mới. Vậy tôi kính-cẩn bày-tỏ lời biểu này để tâu lên." (TB 380/20b)

Ngày 13 tháng 6, vua Tống trả lời, cương-quyết gạt hẳn lời xin. Thư Tống như sau :

"Vả nay, biên-thần nói : "Thủ-lĩnh thuộc Khanh đã xâm-lấn biên-thùy. Tiên-hoàng vốn sẵn lòng nhân, đã ban chiếu-dụ. Cho phép biện-chính, chứng-thực rõ-ràng. Đã đặc-biệt cắt đất ải Khang (chắc là Thông-khang), ân-tứ cho Khanh. Tiếng ban đức như còn đó, nét mực chiếu vẫn còn tươi !

"Vậy Khanh nên nghĩ đến lượng bao-dung, mà tuân theo bờ đã định. Cớ sao còn tâu nhắc lại, vẫn giữ lầm xưa, mà lấy đất mới ban cho làm vật cũ sẵn có ? Không kiêng-dè đến thế. Thờ kẻ trên như vậy, sao coi được !

" Xét ý Khanh không lẽ như vậy; ngờ lời người mách thế là sai. Huống chi dân châu động ấy là dân nhà vua đã từ lâu. Từ khi quan-quân đánh lấy Quảng-nguyên đến lúc Trẫm trả Thuận-châu, không hề có tranh-giành ruộng đất ở đó.

"Khanh phải hết lòng thành-thật, tuân theo chiếu trước. Phải thêm cẩn-thận, giữ-gìn cương-vực. Chớ có sinh-sự lôi-thôi. Gắng làm cho đáng Trẫm thương, để được đời đời hưởng lộc." (Chiếu ngày N. Ty, DL 7-8-1086; TB 380/21a).

Vua Tống lại sai viên kinh-lược Quảng-tây, là Miêu Thì-Trung, viết thư cãi lại lời vua Lý.

Đó là Lý cố-nài, Tống quyết-từ lần thứ hai.

Thế là Tống dứt hẳn con đường thương thuyết để nước ta thôi đòi lại những đất Vật-ác, Vật-dương. Tống cũng biết rằng sự bang-giao với Lý trở lại khó-khăn. Tuy rằng năm ấy sứ ta sắp tới Biện-kinh mừng Triết-tông lên ngôi, các quan Tống ở Quảng-tây cũng ra công đề-phòng biên-giới cẩn-thận.

Ngày 11 tháng 10, viện khu-mật nói : "Ti kinh-lược Quảng-tây tâu về, ngỏ ý rất sợ rằng khi sứ Giao-chỉ trở về, chúng sẽ gây sự. Vậy xin thêm quân phòng-ngự ". Thái-hoàng-thái-hậu nói : "Nếu ti kinh-lược Quảng-tây dò thấy sự chóng chầy gì Giao-chỉ cũng sẽ làm loạn là không sai, thì một mặt sai đạo quân thứ 18 đóng ở đông-nam Đàm-châu xuống đóng ở Quế-châu, một mặt soạn-sửa đem quân Hồ-nam tới Quảng-tây và lấy quân ở kinh xuống đóng ở Hồ-nam. Đợi khi nào sứ Giao vào cống, thì sẽ chuyển quân. " (TL cựu-kỷ, theo TB 390/14a).

Ti kiềm-hạt Quảng-tây cũng xin cho quân thú ở các trại Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thái-bình, Hoành-sơn, Thiên-long, Như-tích, Để-trạo được hai năm thay phiên một lần. (TB 393/6b).

Sứ-bộ ta lần nầy gồm có viên-ngoại-lang hộ-bộ Lê Chung là chánh-sứ, và phó-hiệu úy Đỗ Anh-Bối là phó-sứ.

Sứ-bộ tới Quảng-tây trong tháng mười một. Lê Chung gặp Thành Trạc. Y nói với Trạc rằng : "Vua Lý đã xin đổi địa-giới mà chưa được chiếu trả lời ". Chung lại xin chép lại những nguyên-thư và trạng của Lê Văn-Thịnh gửi cho quan Tống, để lúc về sẽ dâng cho vua Lý xem. Trạc mách lại ti kinh-lược. Ti ấy tâu về triều các việc trên và thêm rằng : "Nếu khi Lê Chung tới kinh, lại nói đến việc xin đất, thì nên đem bức thư dài của Lê Văn-Thịnh cho xem mà giảng-dụ, để Lê Chung hiểu rõ rằng trước đó, vì Thành Trạc bảo-đảm sự sứ Giao-chỉ bàn biên-cương không đến nỗi phản-phúc, cho nên dã theo lời sứ xin mà giáng chiếu rồi. Từ rày về sau, nếu người Giao tới kinh còn giám bày-tỏ kêu-ca về chuyện ấy, thì triều-đình khó lòng xử-trí cách khác được ".

Tống trả lời cho Miêu Thì-Trung rằng : "Nếu người Giao không thôi việc đệ thư xin đổi địa-giới, thì đem hết lẽ mà trả lời và giảng-giải ".

Đó là Lý cố-nài và Tống quyết-từ lần thứ ba.

Mồng 6 tháng 4 năm Đinh-mão 1087, sứ-bộ tới Biện-kinh. Mồng 4 tháng 5, vua Tống thăng chức cho chánh và phó-sứ; lấy Chung làm viên-ngoại-lang lại-bộ, và Anh-Bối làm Tây-kinh tả-tàng-khố phó-sứ. Không rõ Lê Chung có tâu việc xin đất không. Có lẽ không, vì không thấy TB chép lại. Chỉ biết rằng, bấy giờ, triều-đình Tống tiếc đã trả đất ngoài tám ải cho ta, và giận Thành Trạc và Hùng Bản đã đề nghị sự ấy.Chính ngày mà Tống ban chức cho sứ ta, viện khu-mật hặc Trạc đã bảo-lĩnh cho Giao-chỉ biện-chính, mà lại còn tự-tiện lấy thư của Lê Văn-Thịnh đã gửi cho Tống, đưa cho Lê Chung xem. Thành Trạc bị giáng chức và sai đi coi thuế rượu ở Quảng-châu (TB 400/6b). Mười ngày sau, Hùng Bản cũng bị biếm; vì cớ "lúc coi Quế-châu, đã phân-hoạch địa-giới không đúng." (TB 401/9b).

Tống không những không trách vua Lý, mà tháng 7 năm ấy, còn phong cho "Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-đức tước Nam-bình-vương " (15) (TB 403/7a).

Thế, nhưng mà Lý Nhân-tông cũng không liền chịu bỏ rơi hai động đã mất. Tống sợ quân ta tời đánh úp, bèn xây đồn ở các cửa ải ở đó, và phát quân đến canh-phòng. Vua Lý vin vào việc ấy mà viết thư kêu với Tống, ý nói quân Tống đe-dọa đất mình, và có lẽ vua Lý lại đòi đất hai động Vật-dương và Vật-ác một lần nữa.

Lời thư ấy không còn nữa. Nhưng chiếu trả lời của vua Tống nay còn. Chiếu ấy viết ngày 22 tháng 8 năm Mậu-thìn 1088, nghĩa là hơn một năm sau khi Lê Chung tới kinh-đô Tống. Lời chiếu như sau :

" Trẫm nhớ thánh-đức của Tiên-đế đã đoái-thương đến phương xa. Sau khi rút quân khỏi Phú-lương, Tiên-đế đã xét lời khẩn-cầu của Khanh, liền lấy các châu Quảng-nguyên ban-cấp.

" Sau đó, vì thủ-lĩnh An-nam nhận lầm vương-thổ. Tiên-đế lại sai quan biện-chính chia cõi. Rồi lấy sáu huyện, hai động ở ngoài tám ải, cấp cho Khanh chủ-lĩnh. Thi-ân như thế, có thể gọi là tột mực.

"Trẫm vâng theo lời dạy của Tiên-đế, cốt làm sao cho bờ-cõi yên vui. Huống chi, Trẫm đã giáng chiếu nhiều lần, giảng cực rõ-ràng. Các đất Vật-ác, Vật-dương, không thể trở lại bàn đến được.

" Còn như sự xây cửa ải, đặt lính thú, thì đều là việc thường làm ở biên cương. Huống chi những đất này qui-minh từ trước, và sự xây ải là sau. Vậy không lẽ gì mà ngờ-vực và kêu-ca nữa.

"Thật rằng, nghĩa kẻ phiên-thần là trước hết dốc lòng thành-tín. Chớ nên vu-hoặc. Lời Trẫm không thể nói đi nói lại nhiều lần.

" Thành Trạc, nhân khi đi tuần-biên để soát các cửa ải, đã tự-tiện đem đồ vật và lụa cho thủ-lĩnh ở ngoài cõi. Làm thế là trái luật. Vừa rồi, theo lời ti kinh-lược tố-giác và tâu hặc Trạc đã sinh sự, Trạc đã bị biếm và đổi đi rồi. Khanh nên đòi lại những đồ vật ấy, và đệ tất cả tới quan.

" Hãy dâng thư-biểu, tỏ lòng cung-thuận. Gắng hiểu lòng Trẫm thương-mến nồng-nàn, để được thêm hưởng nhiều phúc. " (TB 413/8a)

Đó là Lý cố nài và Tống quyết từ lần thứ tư.

Trong chiếu trên, có nói đến việc Thành Trạc đi tuần-biên, cho thủ-lĩnh người nước ta lụa vải và đồ vật. Không biết sự ấy vào khoảng nào. Ta biết rằng Thành Trạc đã bị biếm từ tháng 5 năm trước. Trong chiếu vua Tống lại nói vì Trạc làm lầm việc tuần-biên nên đã bị biếm. Vậy ta nghĩ rằng việc lầm ấy có từ lâu, và có lẽ là việc cho Lê Văn-Thịnh vải vóc từ năm 1084. Nếu quả như vậy, thì vua Tống xử quá gay-gắt và vụng-về.

Lý đã kiên-nhẫn xin đất Vật-ác và Vật-dương cả thảy sáu lần, mà hai lần bị Tống Thần-tông từ, bốn lần bị Thái-hoàng-thái-hậu họ Cao gạt.

Từ đó, vua Lý phải thôi hẳn, không thể nhắc đến việc hai động nữa.

Vả bấy giờ, nước ta đã đến lúc cực thịnh. Thái-hậu Linh-nhân (Ỷ-Lan) và vua đều rất mộ Phật và ưa tạo-tác. Các đại-thần thì có Lê Văn-Thịnh đứng đầu, đều là những người mê-tín dị-đoan và luôn-luôn xu-nịnh cái tính mê-tín của vua và thái-hậu. Cho nên không có ai nghĩ đến việc biên-thùy một cách khẩn-thiết như hồi Lý Thường-Kiệt còn cầm quyền. Còn Lý Thường-Kiệt, thì bấy giờ ở luôn tại Thanh-hóa. Ảnh-hưởng ông đối với Nhân-tông hình như cũng giảm đi nhiều.

Tuy rằng sau khi Thái-hoàng-thái-hậu Tống mất (năm Quí-hợi 1093), vua Tống cầm quyền nhu-nhược, đảng-phái tân cựu lại khynh-đảo nhau rất kịch-liệt, quân Hạ đe-dọa Tống ở miền bắc, mà vua Lý cũng không biết nhân cơ-hội, cố đòi lại đất còn mất. Trái lại, năm Kỷ-tị 1089, quân Tống có khi kéo vào châu Thạch-tê (có lẽ Thạch-lâm ở Cao-bằng ngày nay), mà vua Lý cũng không chống lại kịch-liệt (VSL).

Từ đó về sau, sự bang-giao Lý Tống trở lại thường, không có tính-cách phản-đối, yêu-sách đòi-hỏi gì nữa (16). Tuy rằng VSL có chép vào năm 1106 rằng : "tháng 11, vua Lý sắp có việc lôi-thôi với Tống, sai đóng thuyền Vĩnh-long có hai bụng và những chiến-hạm ", nhưng sau, không thấy có chuyện gì. Trái lại, VSL chép liền sau : "Viên-ngoại-lang Ngụy Văn-Tướng đi sứ sang Tống ".

Tống Lý lại trở nên hòa-hảo. Triều Lý Nhân-tông còn dài. Trong khi ấy nước Tống bị nước Kim xâm-lấn, bắt vua và phá kinh-đô. Kẻ sống-sót phải xuống miền nam sông Dương-tử mà lập nên Nam-Tống. Thế mà các vua Lý không hề biết lợi-dụng thời-cơ, để mở rộng thêm vùng Bắc-Việt.

Xem thế mới biết rằng, tất cả chính-sách lấn dần vào Hữu-giang, trong triều Lý, chỉ nhờ Lý Thường-Kiệt mới có thành-công.

CHÚ-THÍCH
(1) - Nguyên văn : Tài quá Trường-giang, tức tiển tỉnh-địa. Nghĩa là vừa qua sông dài (hay là vừa qua sông Trường), lập-tức đạp lên đất nhà vua (Tống). Hai chữ Trường-giang có thể hiểu là danh-từ chung hay là danh-từ riêng. Nếu hiểu là danh-từ chung, thì sông dài ấy là sông nào. Theo lời chấp-nhận của sứ ta, thì đất Lạng-châu, đã bị Quách Quì chiếm, là thuộc Tống. Vậy sông dài kia là sông Cầu ngày nay. Nếu hiểu là danh-từ riêng thì có thể là sông Thương, mà tên xưa là sông Xương. Âm xươngtrường đều đọc như nhau, là tchang. Nhưng đây chắc nó chỉ có nghĩa là sông dài mà thôi. Trong bia cổ LX và STDL đều chép : Lý Thường-Kiệt bại Tống trên Như-nguyệt trường-giang. Hai chữ trường-giang ở đây cũng như ở trong biểu của Triệu Tiết, chỉ là một cách nói cho trịnh-trọng và bóng-bảy.

(2) - Viên coi Khâm-châu là Lưu Sơ đã dỗ được Vi Thủ-An coi châu Tô-mậu. Chúa trại Vĩnh-bình Dương Nguyên-Khanh đã dỗ được những thủ-lĩnh Quảng-nguyên. Các viên ấy đều được thưởng bảy tư (TB 281/8a). 2.

(3) - Những châu mà Lý xin là Quảng-nguyên, Tư-lang, Môn, Quang-lang và Tô-mậu. Trong các văn-kiện, thường chỉ kể một vài tên để trỏ toàn-thể. Vả bấy giờ, quân ta đã lấy lại Quang-lang, và có lẽ cũng đã chiếm lại Tô-mậu và Môn. Nhưng vua Lý vẫn xin khéo các châu ấy, cốt ý để Tống cho Quảng-nguyên. 3.

(4) - Sau khi Triết-tông lên ngôi, triều Tống, sai các sử-quan Phạm Tổ-Vũ, Triệu Ngạn-Nhược, Hoàng Đình-Kiên soạn Thần-tông thực-lục. Năm Tân-mùi 1091, soạn xong. Bấy giờ đảng-phái chống Vương An-Thạch cầm quyền, cho nên thực-lục Thần-tông phỉ-báng An-Thạch. Đến năm Quí-dậu 1093, Triết-tông thân chính, phái tân-pháp trở lại đắc-dụng, cho nên sai rể An-Thạch, là Thái Biện, soạn lại Thần-tông thực-lục. Tháng chạp năm Giáp-tuất (đầu năm 1095), Biện soạn xong. Các sứ-thần soạn bản thực-lục cũ đều bị an-trí. Vì vậy, nên có hai bản Thần-tông thực-lục, cựu-kỷ tân-kỷ .3

(5) - TB (411/5b) lại chép rằng năm Mậu-thìn, sau khi trả Thuận-châu cho ta, Linh Sùng-Khái chạy vào đất Tống. Được Tống cho coi động Hoài-hóa. Tống thưởng công liệt vào hàng sứ và đổi động Hoài-hóa ra châu. 4.

(6) - Một dư-luận quan-trọng khác là lời Tô Thức (Tô Đông-Pha) tâu can vua Tống Triết-tông đừng dùng Thẩm Khỉ. Nguyên Khỉ và Lưu Di bị biếm và có nghị-định về sau không được lục-dụng nữa. Nhưng Di được khôi-phục chức-vụ ít nhiều. Khi Triết-tông lên ngôi, định xá tội cho Khỉ, Tô Thức dâng biểu nói :

"Tôi thấy từ đời Hi-ninh, Vương An-Thạch được dùng, bắt đầu tìm lập biên-công, sinh hiềm-thù với các man-di. Vương Thiều dâng việc Hi-hà. Chương Thuần xui việc Ngũ-khê (vùng Mai-châu, Phúc-kiến). Hùng Bản gây việc Lô-châu (vùng Tứ-xuyên). Thẩm Khỉ và Lưu Di thấy vậy, cũng bắt chước, kết oán với Giao-chỉ. Binh dùng liền-liền, gây ra họa lớn. Quân chết đến mười vạn người. Cả nhà Tô Giàm bị hóa ra bùn tro. Đến nay, Lưỡng-Quảng bị đau thương chưa khỏi.

"Tiên-đế đầu muốn giết hai người ấy để tạ thiên-hạ. Nhưng Vương An-Thạch hết sức che-chở, cho nên chúng mới khỏi mất đầu. Thế là đã may lắm rồi. Đến năm Nguyên-phong thứ 6 (24-3 năm Quí-hợi 1083) có Thánh-chỉ định rằng Thẩm Khỉ đã phạm tội nặng không được lục-dụng nữa. Thiên-hạ truyền-tụng tin ấy, vàcho là đáng. Đó là lời Tiên-đế không thể đổi được.Vậy không nên vì tức-vị mà ân-xá.

"Thẩm Khỉ và Lưu Di đều có trách-nhiệm đối với hàng mười vạn sinh linh. Tuy có bị kiềm-hãm suốt đời, cũng chưa trả đủ nợ. Gần đây, chỉ vì Lưu Di hơi được dùng, mà Khỉ không biết tự-lượng, giám ngỏ lời kêu và đổ lỗi cho Di, vin lẽ nọ kia, để mong được dùng.

"Theo ý tôi, thì việc An-nam là do Khỉ gây mối, mà Di nối theo. Phép có thủ-phạm, tùng-phạm. Di còn là kẻ siêng năng; học-thuật còn có chỗ dùng được. Còn Khỉ thì nhân-cách ti-tiện, làm việc xu-nịnh và nham-hiểm. Sự Triều-đình dùng Di đã làm mất tín đối với công-nghị, huống nay lại dùng Khỉ. Thật không có lẽ gì ân-xá Khỉ. " (TB 373/4a). 5.

(7) - Các tên sứ, thì các sách chép hơi khác nhau. Thông-giám cương-mục (sách Tàu) chép tên chánh-sứ là Lệ-tân-phó-sứ Lương Dụng-Tân. Sách TB chép Lệ-quảng-phó-sứ Lương Dụng-Luật. Sách ta chỉ có VSL chép tên sứ mà thôi, và chép Lương Dụng-Luật như ở TB.

Còn tên phó-sứ, thì TB 313/11b chép Nguyễn Văn-Bội, và nói theo các sách TL chép như vậy. Nhưng sau đó (TB 349/6a), có chép tên một phó-sứ khác là Nguyễn Bồi đi sứ Tống cùng Lê Văn-Thịnh. 6 và 8.*

(8) - Sách TT chép : "bốn động : Lôi-hỏa, Bình, Yên, Bà, và một châu Tư-lang ". Còn VSL chép ba động : Lôi-hỏa, Bình, Bà và châu Tư-lang. Sách TS 495 chép : "lấy bốn động : Lôi-hỏa, Tần, Bà và châu Tư-lang ". Sách SK so-sánh TT và TS và kết-luận : "Có nơi đổi tên Yên ra Tần. Đây tôi lấy Tần, vì trong chiếu vua Tống có chép tên ấy. 7.

(9) - TT chép : " Tháng 9, người Vật-dương loạn, đánh dẹp yên ". VSL chép : " Nùng Trí-Cao chiếm động Vật-dương thuộc châu An-đức ở Tống ". TS 495 chép : "Nùng Trí-Cao đánh úp châu An-đức, tiếm xưng Nam-thiên-quốc, cải-nguyên Cảnh-thụy. Năm Hoàng-hữu đầu (1049), vào cướp Ung-châu. Năm sau (1050), Giao-chỉ đưa quân tới đánh, không được". 7.

(10) - Các sử-gia ta ngày trước không ai hiểu rõ việc trả đất năm Giáp-tý 1084, cho nên thường chép lúng-túng. Ngô Thì-Sĩ nhận thấy sự mập-mờ ấy, có bàn trong sách SK, nhưng chính ông cũng không hiểu nốt. Ông nói : "Theo Cương-mục tục-biên Giao-chỉ di-biên, thì " quân Tống tới xâm, lấy các đất Quảng-nguyên, Tư-lang, Tô-mậu, Quang-lang, rồi đổi Quảng-nguyên ra Thuận-châu. Đến khi Lý trả dân đã bắt, Tống bèn lấy Thuận-châu trả lại. Về sau định giới, lại trả lại sáu huyện, ba động. " So với cựu-sử (tức là TT), thì cũng như nhau, nhưng đều không chép rõ huyện nào, động nào. Nay xét, thấy các sách đều không nói trả các châu Tư-lang, Quang-lang. Thế mà các đất này từ đời Lý Thần-tông về sau sẽ là đất Lý. Hoặc-giả, sau khi đổi Quảng-nguyên ra Thuận-châu, Tống lại hợp đất Tư-lang và Quang-lang mà đổi thành huyện và động. Sáu huyện, ba động kia hoặc là đất ấy chăng ? Lúc đầu chỉ trả Thuận-châu; về sau định-giới, mới trả hết cả. Như thế mới còn có lý. Nhược-bằng sáu huyện là đất Bảo-lạc, ba động là đất Túc-tang (TT và SK đều nói ba động, và hình như hiểu Túc-tang là tên một động mà thôi), thì người Tống chưa hề xâm đất ấy, cớ sao lại trả cho ta ? ". 8.

(11) - Sách cũ của nước ta và nước Tầu không có chấm câu. Khi nào chép tên nhiều đất liền nhau như ở đây, rất khó lòng nhận tên đất cho đúng, vì có tên chỉ một chữ, có tên gồm hai, ba chữ. Nhưng có một vài trường-hợp, ta có thể nhận ra; nhất là khi trong số đất chép tên, có một vài đất mà mình quen tên trước, và khi nào biết trước số tên đất chép đó. Hai trường-hợp ấy gặp ở đây. Vậy tôi đã theo nguyên-tắc sau này để chấm câu : phải chấm câu làm sao cho có đủ 18 tên, mà giữ trọn được những tên đã biết rồi, như Ôn-nhuận, Vật-ác, Vật-dương, Tần, Nhậm, Cống, hay là những tên có thể đoán được, như Hạ-lôi, Thượng-điện. Ngoài những tên ấy ra, thì ở đây phải nhận rằng mỗi tên chỉ có một chữ, mới đủ 18 tên. Đó là trường-hợp đặc-biệt. 8.

(12) - Tôi cũng theo nguyên-tắc vừa nói trong chú-thích 11, mà định những tên này. Những tên ải thì chắc như thế là đúng; vì có 8 ải mà có 16 chữ, mỗi tên chắc gồm hai chữ. Vả chăng nếu chấm câu như vậy, thì những tên sẽ có chữ Canh, Khâu, Khiếu đứng đầu, đều là những danh-từ chỉ đèo, núi.

Tên sáu huyện và hai động cũng chắc là đúng như trên. Vì tên Bảo-lạc nay còn. Huyện Bảo-lạc xưa là vùng phía bắc tỉnh Hà-giang bây giờ. Nùng Văn-Vân nổi loạn ở đó (1833). Vua Minh-mạnh bèn xoá tên Bảo-lạc, mà chia đất ra làm hai huyện Để-định và Vĩnh-điện. Huyện-lị đời xưa đóng ở phố Vân-trung. Cho nên phố ấy cũng có tên Bảo-lạc. Nay, ở trong bản-đồ sở họa-đồà Đông-dương còn để tên Bảo-lạc vào chỗ ấy.

Nguyên-tắc dùng để định tên đất, đã dùng trên, chỉ có lý khi nào biết chắc-chắn số đất. Về sáu huyện hai động, thì có nhiều thoại khác nhau. Sách ta có TT chép "6 huyện 3 động". Sách Tầu thì TS 488 chỉ nói đất Túc-tang, hay Túc, Tang; TS 334 nói "8 động Túc-tang hay Túc, Tang "; Thông-giám-cương-mục chép như TT : 6 huyện, 3 động. Chỉ có TB chép theo TCK, có chép đủ chi-tiết, và nói 6 huyện, 2 động. Xét thấy thoại của TCK là chắc-chắn đúng. 8.

(13) - TS 488 chép : "Tống Thần-tông khen rằng Văn-Thịnh biết khiêm-tốn, Càn-đức biết cung-thuận. Cho nên ban cho Văn-Thịnh áo bào, đai nịt, và 500 tấm quyến. Lại cho Càn-đức sáu huyện Bảo-lạc và hai động Túc-tang ở ngoài tám ải ". 8.

(14) - Ải Thông-khang nầy có lẽ là ải Thông-khoáng trong 8 ải phân-giới đã nói trong chiếu của vua Tống (xem XII/8). 8.

(15) - VSL chép: năm Đinh-mão, vua Tống Triết-tông gia cho vua Lý chức Đồng-bình-chương-sự, và ba năm sau mới phong cho vua Lý tước Nam-bình-vương. Còn TT cũng chép như TB. Nhưng TS 488 chép rõ rằng : Triết-tông lên ngôi (1085), gia-phong cho Càn-đức chức Đồng-trung-thư môn-hạ-bình-chương-sự, và năm Nguyên hữu thứ 2 (1087), Giao-chỉ sai sứ vào cống, được tiến-phong Nam-bình-vương. Xem vậy, VSL chép đúng việc, nhưng sai năm. 9.

(16) - Từ năm 1090 đến cuối đời Nhân-tông (1027), Lý sai mười sứ-bộ vào cống Tống; cứ bốn năm tới Biện-kinh một lần.

Sau đây là bảng kê các phái-bộ ta tới tiếp-xúc với Tống trong đời Lý Nhân-tông và sau cuộc Tống-Lý chiến-tranh :
 

NĂM SỨ-THẦN MỤC-ĐÍCH VIỆC LÀM
1073 Lý Hoài-Tố Cáo ai
1077 Kiều Văn-Ưng Bàn hòa Tới doanh Quách Quỳ.
1077 Lý Kế-Nguyên Xin cống Phạm miếu-húy, phải quay về.
1078 Đào Tông-Nguyên (a) Xin đất Quảng-nguyên Cống 5 voi
1081 Lương Dụng-Luật
Nguyễn Văn Bồi
Xin đất Vật-ác, Vật-dương 
Xin kinh Phật
Cống voi, ngà, sừng tê. 
1083 Đào Tồng-Nguyên Chia địa-giới Tới Vĩnh-bình, không xong việc.
1084 Lê Văn-Thịnh
Nguyễn Bội
Chia địa-giới Tới Vĩnh-bình, được 6 huyện, 3 động.
1087 Lê Chung
Đỗ Anh-Bối
MừngTriết-tông đăng-cực Muốn xin Vật-ác,Vật-dương.
1090 ? Kết hiếu
1094 Nguyễn Lợi-Dụng Kết hiếu (VSL)
1098 Nguyễn Văn-Tín Xin kinh Tam-tạng (VSL)
1102 Đỗ Anh-Hậu Kết hiếu (VSL)
1106 Ngụy Văn-Tướng Kết hiếu (VSL) Xin mua sách.
1110 Đào Ngạn Kết hiếu (VSL)
1114 Đào Tín-Hậu Kết hiếu Cống voi.
1118 Nguyễn Bá-Độ (b)
Lý Bảo-Thần
Kết hiếu Cống 1 tê trắng, 1 tê đen và 3 voi.
1122 Đinh Khánh-An
Viên Sĩ-Minh
Kết hiếu Cống voi.
1126 Nghiêm Thường
Từ Diên
Kết hiếu Tới Quế-châu phải trở về, vì Kim đánh Tống.

(a) TT chép tên Đào Sùng-Nguyên đi sứ Tống năm 1069 (Xem V/3), chắc cũng là Đào Tông-Nguyên. Chữ SÙNG và TÔNG gần giống nhau.

(b) Theo TT. Còn VSL chép tên Khánh. Chữ KHÁNH viết thảo và chữ ĐỘ gần tụ-dạng.

(c) Trong chương V, đoạn 3, trương 112, dòng 4 kể từ dưới, có lầm ra năm 1164. Vậy cải-chính, và phải đọc 1174.

Còn như việc Tống phong cho Lý Nhân-tông, thì thứ-tự như sau :

1073 Trao chức Kiểm-hiệu thái-úy, Tĩnh-hải-quân tiết-độ sứ, An-nam đô hộ phong tước Giao-chỉ quận-vương.

1085 Gia-phong Đồng-trung-thư môn-hạ bình-chương-sự (vì Triết-tông lên ngôi)

1087 Tiến-phong Nam-bình-vương.

1101 Gia-phong Khai-phủ-nghị đồng-tam-ti, Kiểm-hiệu thái-sư (vì Huy-tông lên ngôi).

1119 Gia Thủ-tư-không (vì Khâm-tông lên ngôi).

1132 Tặng Thị trung tuy phong Nam-Việt-vương (Lý Nhân-tông mất năm 1127, nhưng vì Tống bị Kim đánh chạy, đến năm 1132 mới đóng đô yên-ổn ở Hàng-châu).

Cách phong cho vua Lý đến Lý Anh-tông vẫn theo lệ cũ, nghĩa là bắt đầu bằng chức Thái-úy, Tĩnh-hải quân tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ, và phong Giao-chỉ quận-vương. Nhưng trong đời Lý Anh-tông, nhân có sứ ta là Doãn Tử-Tư và Lý Bang-Chính tới cống (1073), vua Tống Hiếu-tông phong cho vua Lý tước An-nam quốc-vương (1074). Từ đó về sau, Tống nhận ta là một nước (QUỐC), và các vua Lý Cao-tông, các vua Trần Thái-tông, Thánh-tông đều được phong chức An-nam-quốc-vương, lập-tức ssau khi mới lên ngôi. Sách TT chép Tống phong Lý Anh-tông làm An-nam-quốc-vương và đổi Giao-chỉ ra An-nam-quốc, vào năm Giáp-thân 1164. Chắc là sai. Không những VSL, TS 488 và TS 34 chép vào năm Giáp-ngọ 1074, mà câu thơ của Lý Bang-Chính (c), mà LNĐĐ còn ghi lại : Thử khứ ưu thành tứ quốc-danh (V/3) chứng rõ rằng sự đặt tên nước An-nam là vào năm Bang-Chính đi sứ, ngghĩa là năm 1074.