[ Mục lục /  [ Trang trước ]  /   [ Trang sau ]
HOÀNG XUÂN-HÃN
Lý Thường Kiệt
LỊCH-SỬ NGOẠI-GIAO TRIỀU LÝ
Phần III - Vì Dân vì Đạo 

CHƯƠNG XIII : COI ĐẤT MIỀN NAM 

 1. Tu-bổ nội-trị - 
2. Thôi chức tể tướng - 
3. Thị-trấn Thanh-hóa - 
4. Trở về triều - 
5. Dẹp loạn Lý Giác - 
6. Đuổi quân Chiêm - 
7. Huân-dự cuối cùng -
8. Dư-luận - 
Chú-thích

 1. Tu-bổ nội-trị
Sau khi đánh lui quân Tống, thanh-thế Lý Thường-Kiệt lại càng lừng-lẫy. Vua mới mười hai tuổi. Quyền vẫn ở trong tay tể tướng. (1)

Thường-Kiệt đã lo-lắng khôi-phục những đất đã mất và đòi lại những châu-động bị sáp-nhập vào Tống trước khi có đại-chiến-tranh (XII). Đối với trong nước, ông cũng tu-bổ đê-điều, đường-sá, đình chùa hư hỏng vì chiến tranh. Ông sửa đổi việc hành-chánh, tuyển thêm nhân-viên giúp việc các công-sở.

Ta đã thấy rằng quân ta đắp đê bờ nam sông Cầøu thành một bức trường-thành để ngăn quân Tống. Các trận kịch-liệt chắc đã làm cho đê hư-hỏng nhiều. Tháng 9 năm Đinh-tị 1077, có lệnh đắp lại đê con sông ấy. Khoảng đắp lại dài 67.380 bước (VSL), bằøng ước chừng 35 cây-số, có lẽ từ ngã ba sông Như-nguyệt đến chân núi Kháo-túc.

Tháng giêng năm sau (Mậu-ngọ 1088), thành Đại-la cũng được đắp lại (TT ; VSL chép tháng giêng nhuận). Có lẽ ông còn sợ quân Tống trở lại, cho nên tu-bổ các thành-trì. Sự chữa đê Như-nguyệt kỳ-thật là để làm chắc thêm phòng-tuyến chống xâm-lăng.

Sau một năm loạn-lạc, các đền-đài, tự-quán bị hư-hỏng nhiều (theo Mộ-chí Lưu Ba). Ông sai sửa-chữa lại.

Về việc hành-chính, liền sau khi đánh Ung-châu về, đã có sự cải-lương. Ông chọn những kẻ hiền-lương có tài văn-vũ để cai-quản quân và dân. Trong sự chọn-lọc quan-liêu, hình như tài văn-học bắt đầu được chú-ý lắm. Cuối năm Bính-thìn 1076, chọn những quan-viên văn-chức hay chữ vào dạy trường Quốc-tử-giám (TT). Tháng chạp năm ấy, nhà khoa-bảng đầu tiên ở nước ta, là Lê Văn-Thịnh, được trao chức binh-bộ thị-lang (VSL).

Một việc cải-cách quan-hệ mới là tổ-chức những cơ-quan hành-chính thuộc mọi ngành. Năm Đinh-tị 1077, nước ta bắt đầu có mở những kỳ thi chọn những nhân-viên chuyên-môn về viết chữ tốt, làm toán giỏi, thông hình-luật. Những người trúng-tuyển được bổ làm lại-viên ở các viện và bộ, như thư-xá, hộ-bộ, hình-bộ.

2. Thôi chức tể tướng
Vì Thường-Kiệt có công-lao đặc-biệt, nên được cất lên ngang hàng các hoàng-tử. Ta đã thấy rằng vua Lý Thánh-tông từng phong ông làm Thiên-tử nghĩa-nam, nghĩa là con nuôi vua. Cho nên, vua Lý Nhân-tông coi ông như em nuôi, và ban cho ông hiệu Thiên-tử nghĩa-đệ.

Tuy vậy, vua càng năm càng lớn, thì thế-lực Thường-Kiệt chắc cũng bị giảm dần. Quyền-bính dần-dần chuyển sang tay Lý Nhân-tông. Từ năm Quí-hợi 1083, các sử bắt đầu có chép những việc tỏ rằng Nhân-tông đã ra thân-chính. Bấy giờ vua lên 16 tuổi ; đối với nhà vua, đó là tuổi trưởng-thành. Tháng hai năm ấy, vua ra ngự ở điện Thiên-khánh, thân-hành duyệt các hoàng-nam ở kinh-thành, và chia ra làm ba hạng (VSL và TT). Hoàng-nam, như ta đã thấy (II/cth 3), là con trai lên mười tám tuổi, phải đăng tên vào sổ công, để gọi ra lính. Duyệt hoàng-nam thật là một dấu-hiệu vua mới trưởng-thành. Tháng ba năm ấy, thái-hậu đã sai chọn mỹ-nữ vào hầu ở cung Vạn-diên (VSL). Tháng chín, dân động Ma-sa (ở vùng Đà-giang) nổi loạn, tháng mười vua đem quân thân-chinh, và dẹp yên (VSL).

Thường-Kiệt đi đâu vắng, mà vua phải thân-chinh ? Các sử ta không hề chép. Nhưng còn có hai bia đời Lý nói rõ rằng ông được sai coi đất Thanh-hóa. Bia LX không chép rõ ông vào ở Thanh-hóa năm nào, mà chỉ nói rằng : " Đầu đời Anh-vũ-chiêu-thắng, vua ban hiệu Thiên-tử nghĩa-đệ, sai ông ra giữ trấn Thanh-hóa, thuộc quận Cửu-chân, châu Ái, coi mọi việc quân và dân. Lại phong cho ông lộc của một vạn hộ ở Việt-thường ". Niên-hiệu Anh-vũ-chiêu-thắng có từ tháng tư năm Bính-thìn 1076 đến thánh hai năm Ất-sửu 1085. Vậy, bia LX nói đầu niên-hiệu ấy có lẽ chỉ vào năm 1076, và đó là năm vua ban cho ông hiệu Thiên-tử nghĩa-đệ mà thôi. Bia BA chép rõ-ràng hơn. Bia ấy nói : " Năm Nhâm-tuất, Hoàng-đế đặc-gia một quân ở trấn Thanh-hóa, ban cho ông làm phong-ấp ". Năm Nhâm-tuất 1082 chính là năm trước khi có những việc Nhân-tông thân-hành đã kể trên.

Vậy thì chắc rằng trong năm Nhâm-tuất, ông ra đóng ở trấn Thanh-hóa. Có lẽ vào cuối năm ấy. Song hình như ông đã được trao quyền coi Ái-châu từ trước, nhưng chỉ phải dao-thụ, nghĩa là ở xa trông-coi mà thôi. Từ lúc đánh Chiêm-thành về, ông đã có chức Nam-bình tiết-độ-sứ (II/6). Nam-bình đây có thể trỏ ba châu mới được. Ta sẽ thấy rằng (XV/3), năm Tân-dậu 1081, Lý Thường-Kiệt có lần vào Thanh-hóa xử việc chia ruộng cho giáp Bối-lý. Vậy bấy giờ, ông đã được coi riêng đất Thanh-hóa rồi.

Lý Đạo-Thành mất năm Tân-dậu 1081. Chỉ còn Thường-Kiệt là kẻ chế lại ít nhiều uy-quyền của Nhân-tông. Ông đi xa, thì vua mới thân-chinh thực-sự được. Chắc đó là một cớ khiến ông vào trấn Thanh-hóa.

Và theo lời Triệu Tiết, vua và thái-hậu oán Thường-Kiệt đã gây chiến-tranh với Tống (X/5). Tuy những ý-tưởng của người Tống đối với người nước ta phần nhiều là những thành-kiến chủ-quan, nhưng trong cơn nguy-kịch, đang khi quân Tống uy-hiếp lăng-tẩm và kinh-thành nhà Lý, thái-hậu và vua, là đàn bà con trẻ quen sống thái-bình, êm-ấm, chắc chẳng khỏi có lúc nản lòng, và oán viên đại-tướng quen với trăm trận, không nghĩ đến sự nhàn thân. Vả bấy giờ chiến-tranh đã xong, mà lại đòi được tất cả những đất đã mất. Danh-dự và quyền-lợi đã bảo-toàn. Thế mà Thường-Kiệt còn gắt-gao đòi lại những đất Vật-ác, Vật-dương. Tháng 9 năm ấy, ông lại quân vào đánh Nùng Trí-Hội để chiếm đất Vật-dương, và có lẽ còn soạn-sửa tấn-công mạnh vào đất Tống nữa. Những lời Ngô Tiềm nói, và những tin đồn ở Quảng-tây rằng quân ta sắp đánh Tống, dẫn lại trong chương trước (XII/7), chứng-thực cho sự sửa-soạn ấy. Tự-nhiên, thái-hậu sợ vì ông mà chiến-tranh lại bùng nổ một lần nữa. Đó là cớ thứ hai mà thái-hậu và vua muốn ông bỏ chính-quyền.

Tuy vậy, như ta đã thấy, triều-đình Lý vẫn thiết-tha muốn đòi lại hai động Vật-ác và Vật-dương. Nhưng lại chỉ muốn dùng lối ôn-hòa. Trước đó bốn năm, Tống đã đòi Lý xử tội Thường-Kiệt đã gây chiến-tranh. Nếu ông rời ngôi tể-tướng, có lẽ sự điều-đình sẽ dễ-dàng hơn. Đó là lẽ thứ ba, khiến vua Lý Nhân-tông sai ông vào coi trấn Thanh-hóa.

Thường-Kiệt phải bỏ Thăng-long vào Thanh-hóa là một sự bất-đắc-dĩ, nhưng không phải là ông bị cách chức, hay khiển-trách. Vua Nhân-tông lại đặc-biệt đặt thêm một quân ở Thanh-hóa để phó cho ông, và phong ông một vạn hộ ở Việt-thường, nghĩa là ở ba châu ngoài dãy núi Hoành-sơn (Bia LX). Như thế đủ tỏ rằng tuy thôi chức tể-tướng, nhưng ông vẫn rất được tôn-trọng. Vả hình như trong hồi ông ở Thanh-hóa, các triều-thần như Lê Văn-Thịnh vẫn chịu ảnh-hưởng của ông trong việc điều-đình với Tống để đòi đất.

3. Thị-trấn Thanh-hóa
Thanh-hóa là một trấn giàu, rộng, được khai thác từ đời Hán, Đường. Nhân-dân trù-mật, và rất được giáo-hóa. Các việc cai-trị và hành-chính ở đó chẳng khác gì ở trung-nguyên chung-quanh Giao-châu.

Đời Đinh, Lê, đô đóng ở Hoa-lư, không xa Thanh-hóa mấy. Lê Hoàn lại là người Ái-châu (huyện Thụy-nguyên, làng Trung-lập có đền). Theo ĐNNTC, tục truyền rằng đền làm trên nhà họ Lê, tuy rằng Ngô Thì-Sĩ nói khác). Vì thế, đất Ái-châu được các vua Lê chú ý tới (2). Năm 993, Lê Hoàn phong cho con thứ bảy là Long-Túng làm Định-phiên-vương, coi Ngũ-huyện-giang ở Ái-châu.

Đến đời Lý, kinh-đô đóng tại Thăng-long. Đất Ái-châu liền đổi ra trại (1010, TT). Thanh-hóa hình như không được quan-tâm đến lắm. Các sử còn lại không chép một tên vị quan nào được bổ coi Ái-châu trong đời đầu Lý. Trong khoảng ba đời vua đầu nhà Lý, ta thấy sử còn chép dân nổi loạn sáu lần (3). Mỗi lần, hoặc vua thân-chinh, hoặc vua sai hoàng-tử đi dẹp. Năm 1061, Thường-Kiệt đã được sai đi kinh-phỏng ở Ngũ-huyện (1/3).

Theo đó, đất Thanh-hóa bấy giờ chỉ giao cho các châu-mục giữ, chứ không có đại-quân đóng. Mỗi lúc hữu-sự, thì sai quân ở miền bắc vào. Phải đợi đến năm 1082, Lý Nhân-tông mới đặt Thanh-hóa thành một trấn, có một đạo quân đóng luôn ở đó. Đạo quân ấy giao cho Lý Thường-Kiệt. Ta có thể coi đất Thanh-hóa gần như một nước nhỏ, tự-lập đối với triều-đình. Lý Thường-Kiệt tuy không có tước vương, nhưng là một Thiên-tử nghĩa-đệ. Vậy ông được hoàn-toàn tự-do hành-động trong trấn ông coi.

Trị-sở trấn Thanh-hóa bấy giờ ở gần xã Duy-tinh, huyện Hậu-lộc ngày nay. Bia chùa Sùng-nghiêm-diên-thánh ở Duy-tinh còn chép rằng chùa ấy ở góc tây-nam trấn-sở (XV/3). Vậy trấn-sở ở đông-bắc xã Duy-tinh. Xét bản đồ, ta thấy gần phía ấy, phía bắc con sông bé Ngu-giang, còn có vài làng rất lớn, có thể là nơi trấn cũ. Nếu đào đất khảo-cổ ở vùng đó, chắc sẽ cho ta biết rõ.

Trấn-sở có lẽ không to-tát, kiên-cố lắm ; vì mười lăm năm sau đã phải sửa-chữa nha-thự (Bia SNDT). Với lộc vạn-hộ ở Việt-thường và thuế cả Ái-châu, ông có thể xây đủ lâu-đài doanh-thự, nhưng hình như ông không muốn làm phí-phạm của dân.

Vả dân Thanh-hóa, cũng như dân khắp cả nước Đại-Việt đương-thời, sinh-hoạt cốt nhờ về nghề nông. Tuy cũng có những nghề nhỏ, như chăn tằm, dệt vải, đánh cá, trồng hoa quả, đốn gỗ, săn tê tượng, làm muối, làm công-nghệ và buôn-bán, nhưng đều là những nghề phụ. Kẻ trị dân tốt là kẻ không quấy-nhiễu dân, không làm dân tốn tiền, tốn của, phải chầu-chực việc công ; để dân có đủ thời-giờ cày cấy đúng thời, tát nước, làm cỏ. Kẻ trị dân tốt là kẻ nghiêm cấm tụi vô-lại cướp lúa, cướp tiền-của, ăn trộm trâu bò hay tranh-giành ruộng đất. Kẻ trị dân tốt lại là kẻ xử kiện công-minh, để cho kẻ bị áp-bức có đường kêu, cho kẻ phạm tội không oán-trách. Còn như những công-tác làm cho kinh-tế mở-mang, quốc-quĩ dồi-dào, nếu làm thì phải phiền đến dân trước đã : hoặc ép dân phải đi xâu, hoặc bắt dân phải đóng thuế. Cho nên một kẻ " lương-mục " ngày xưa thường tránh không làm.

Ta không biết Lý Thường-Kiệt trị dân bằng cách nào. Có lẽ ông chỉ chăm phủ-dụ, không làm phiền dân, xử kiện rất công bình.

Vị đại-sự Hải-chiếu Pháp bảo, là một người làm việc ở Thanh dưới quyền ông, đã ca-ngợi công-đức ông trong bài bia Linh-xứng. Lời bia nói rằng :

" Ông, trong tỏ khoan-minh, ngoài thì ân-huệ. Sửa-đổi tục xấu cho dân, không quản khó-nhọc. Làm việc thì cốt tránh làm phiền dân; sai dân thì cốt dỗ dân vui lòng làm việc; vì đó mà dân được nhờ. Đem bụng khoan-thứ cứu dân, lấy lòng nhân-ái yêu dân; vì đó mà dân kính-phục. Lấy vũ-oai để trừ lũ ác, lấy chính-luật mà xử kiện; nhờ đó mà không ai oán, cho nên ngục-thất chẳng cần coi. Xem sự đủ ăn là nguyện của dân, lấy việc cày cấy là gốc của nước; nhờ đó mà mùa không mất. Cai-trị giỏi cho nên không cần đánh dẹp. Nuôi-nấng những kẻ già-nua, cho nên kẻ già được yên. Đạo ông như thế, có thể gọi là gốc để trị dân, thuật để yên dân. Thật là đẹp-đẽ ! "

Bia chùa Báo-ân cũng chép : " Đến năm Nhâm-tuất, Hoàng-đế đặc-gia một quân ở trấn Thanh-hóa, quận Cửu-chân, châu Ái, ban cho ông làm phong-ấp. Các châu-mục đều theo bóng, vạn nhân-dân đều mến đức ".

Tuy lời các bia là lời tán-dương của những kẻ thuộc-hạ. Nhưng ta cũng không có lẽ gì mà cho đó chỉ là lời nịnh-hót một vị quan trên, nhất là văn ấy lại viết sau khi Lý Thường-Kiệt đã rời Thanh-hóa, hay đã mất. Một sự chắc-chắn là từ khi ông ra coi Ái-châu, trong mười chín năm, không hề thấy sử chép một việc loạn gì ở vùng Thanh-hóa trở vào nam. Trái lại, sau khi ông trở về triều, ở Diễn-châu và ở miền giáp Chiêm-thành, lại có giặc quấy.

Trong lúc tại quận, nhân-dân yên-ổn, chính-sự nhàn-rỗi. Ông thường ngao-du sơn thủy, để thưởng-thức phong-cảnh đẹp lạ ở Thanh-hóa.

Ai đã ở qua vùng Thanh-hóa cũng phải nhận rằng núi sông ở đây khác hẳn các nơi. Núi phần nhiều núi đá, gọi là núi lèn. Núi trông lởm-chởm, có thể hình-dung được nhiều vật lạ, như Hàm-rồng, Chồng-mâm, Ngọc-nữ, Kim-đồng. Hoặc ở gần đường cái, hoặc nổi giữa đồng bằng, những núi đất và đá đều gần dân-gian, cho nên thường được trang-sức. Nhiều chùa đền được xây-dựng ở trên. Núi đá lại thường có nhiều hang-động, trong có thạch-nhũ thiên hình vạn trạng. Nào động Linh-quang, Bích-đào, Hồ-công, Kim-sơn, đều là những nơi đại-thắng-cảnh. Núi lại thường gần sông lớn. Cảnh trên đá dưới nước, gần chỗ thuyền bè đô-hội, làm cho du-khách càng đông. Nào Thần-phù, Sầm-sơn, Linh-trường, Bàn-a, Vân-hoàn đều có danh từ đời trước.

Lý Thường-Kiệt cũng đã bị những cảnh thiên-nhiên ấy cám-dỗ. Ông thường ngao-du. Đến đâu cảnh-trí thanh-u, ông dừng thuyền lên bộ, chọn chỗ xây đình, dựng chùa. Nay còn lại một vài vết tích, chương XV sẽ kể.

Những lúc khách kinh-kỳ tới viếng, những lúc sứ Chiêm-thành, Chân-lạp qua chầu, ông đón tiếp ân-cần. Đó cũng là những lúc đỡ tẻ trong đời êm-lặng của tướng-quân tại quận.

Các sử không chép việc ông ra trị Thanh-hóa. Vậy ta không biết rõ chính-tích của ông. Chỉ có bia chùa Hương-nghiêm còn ghi chuyện ông chia đất ở làng Bối-lý, và bia Linh-xứng chép chuyện ông, với một vị cao-tăng tới thăm ông, cùng đi du-lịch các sông núi, và chuyện ông dựng chùa Linh-xứng và nhà Thọ-đường mà thôi.

Về việc dựng chùa, sau này sẽ kể (XV/3). Sau đây là chuyện chia đất. Chùa Hương-nghiêm là một ngôi chùa cổ, lập ra từ đời Đường, ở giáp Bối-lý. Người sáng-lập là Lê Lương, một kẻ rất giàu-có và nhiều thế-lực trong hạt. Gặp năm đói-kém, ông lấy của nhà phát chẩn cho dân. Khi Đinh Tiên-Hoàng lên ngôi, vua ban cho ông chức-tước và thực-ấp. Thực-ấp ấy là đất chung-quanh chùa, có lẽ rộng như một phủ, huyện. Đến đời Lý Nhân-tông, họ Lê có vị đại-sư rất có tiếng là Đạo-dung. Sư lại có người anh họ, là Lưu Khánh-Đàm (XV/1), bạn thân của Lý Thường-Kiệt. Vì vậy, Thường-Kiệt đã, vì sư và Khánh-Đàm, sửa-chữa chùa Hương-nghiêm ở trong trị-hạt của ông.

Bia HN chép chuyện trên, nối lời rằng :

" Năm Tân-dậu (1081), hai phò-ký-lang, họ Thiều và Tô, xin đất phong ấp của họ Lê. Vua bèn xét, định trả lại giáp Bối-lý cho họ Lê. Mùa thu năm ấy, thái-úy Lý-công tới trả ruộng đất. Ông lập bia đá chia ruộng cho hai giáp...Thái-úy dặn đi dặn lại, bảo hai giáp không được lấy một lá lau-lách ở hai bên bờ phân-giới..."

Chính-tích của Lý Thường-Kiệt trong mười chín năm tại trấn, mà nay chỉ ghi được một việc cỏn-con như thế mà thôi. Thật là đáng tiếc, mà đáng trách các sử-gia và văn-sĩ ta đã không ghi chép việc thường ngày.

4. Trở về triều
Bia BA kể công-đức Lý Thường-Kiệt ở Thanh-hóa có nói : " Trong mười chín năm, ông thực-hành tiết-tháo." Ta có thể hiểu rằng ông ở Thanh-hóa trong mười chín năm, từ năm 1082 đến năm 1101. Sách TT chép vào năm Tân-sửu 1101 việc vua Nhân-tông cải nguyên, lấy niên-hiệu Long-phù (VSL chép Long-phù-nguyên-hóa) và cử Lý Thường-Kiệt kiêm chức nội-thị phán-thủ đô-áp nha-hành-điện nội ngoại đô-trị-sự, nghĩa là một chức quan hầu gần vua, và coi hết các việc trong ngoài cung điện. Như thế đủ tỏ rằng có sự thay đổi lớn ở triều trong năm ấy, và Lý Thường-Kiệt được gọi về kinh.

Hai chứng phù-hợp với nhau cho ta biết chắc rằng năm Tân-sửu, vua Lý Nhân-tông mời ông về Thăng-long giữ chức tể-tướng trở lại. Lúc rời kinh, ông 64 tuổi; bấy giờ trở về, đã 83 tuổi.

Vì lẽ gì có việc thay đổi nầy ?

Năm năm trước, thái-sư Lê Văn-Thịnh bị cách chức, vì có việc vua hiềm-nghi ông muốn dùng thuật-pháp để hại vua (XIV/6). Văn-Thịnh bị đày vào Thanh-hóa (4), giao cho Thường-Kiệt giữ. Sử không chép ai thay ở chức tể-tướng.

Sau đó mấy năm liền, nhiều hiện tượng thiên-nhiên xẩy ra, mà người ta cho là điềm xấu, báo sự Trời không bằng lòng nhân chính hay tin trước những sự tai-họa sắp xẩy ra, như : tật-dịch, binh-đao, hoặc một vị đại-thần, thái-hậu, vua sắp mất. Khi thấy có những điềm ấy, vua thường tự xét mình có tội-lỗi gì và tìm phương cứu-chữa. Hoặc sai xét lại các án, hoặc phóng-thích tù-nhân, hoặc cầu "trực-ngôn", nghĩa là cho phép công-luận một cách không dè-dặt chỉ-trích chính-sách triều-đình và đề khởi những chính-sách mới. Cũng có lúc dùng lễ-bái để cầu Trời, cầu Phật tha lỗi, hay là dùng một cách giản-dị hơn, là đổi niên-hiệu để tỏ mình bắt đầu một kỷ-nguyên mới, như một người thường dân, gặp vận đen, đổi nhà hay đổi họ, đổi tên.

Năm Đinh-sửu, chín tháng sau khi Lê Văn-Thịnh phải tội, trên trời, sao hiện giữa ban ngày. Vua liền xá tội cho các tù-nhân giam ở nhà ngục Đô-hộ-phủ ở Thăng-long (VSL 1097). Một năm sau nữa, đất động, sao chổi lại hiện ra. Vua 35 tuổi, vẫn chưa có hoàng-trừ. Vua lập đàn, có xây núi Ngao-sơn trên đất cạn; dựng đài cao, chung-quanh treo đèn đủ sắc, đủ kiểu, ở trên có vũ-nữ múa, nhạc-công cử nhạc (VSL 1098). Rồi trong hai năm, vua Nhân-tông và thái-hậudựng nhiều chùa, ở núi An-lão (ở Kiến-an, 1099 VSL), ở núi Tiên-du (ở Bắc-ninh, 1110 VSL). Vua sai Kiều Văn-Tư đi sứ Tống để xin kinh Tam-tạng (tháng 7 năm C. Th 1110, VSL).

Vua cố gắng như vậy, nhưng tai-nạn cũng không tránh khỏi. Cuối năm Canh-thìn 1110, bệnh dịch phát to trong nước (TT và VSL, tháng chạp). Vì vậy, mà đầu năm sau, vua mới cải-nguyên và mời Lý Thường-Kiệt về kinh.

Ông có thay đổi chính-trị gì không ? Các sử ta chép những khoảng nầy rất sơ-sài, nên không thấy nói gì về chính-sự. Chỉ thấy trong mấy năm liền, chép rặt chuyện dựng chùa, xây tháp; chuyện sai hoàng-hậu và phi-tần ăn chay cầu-tự; và chuyện vua đi các hành-cung xem cày, gieo thóc, xem đánh cá, hoặc săn voi (VSL).

Tuy nhiên, ta cũng còn thấy sử chép một đôi việc, có thể đoán là do sáng-kiến của ông mà ra. Liền sau khi ông từ Thanh-hóa trở về triều, ông đổi châu Hoan ra phủ (5) Ngệ-an (VSL). Chắc rằng, ông đã thấy vị-trí quan-trọng của châu Hoan trong việc phòng-thủ nước nhà, nên ông cất xứ ấy lên hàng phủ để tăng số quân-lính coi giữ. Cuối năm Nhâm-ngọ 1102, lụt to, nên đầu năm sau ông sai các nơi trong và ngoài thành đều đắp đê chắn nước (VSL).

Tuy chính-tích ông còn ghi rất ít, nhưng ta cũng tin rằng sự ông về triều đã làm yên lòng vua và dân. Những năm sau đó đều là những năm thịnh. Sử còn chép rằng vào tiết lập-xuân, tháng chạp năm Nhâm-ngọ, đầu năm1103 (6), "thụy-tuyết" xuống. Tuyết là sương-muối chăng ? Bấy giờ cho rằng nó báo điềm tốt. "Rồng vàng" lại hiện, "mây tốt" cũng thấy trên trời, hươu đen tự nhiên tới. (VSL)

Vua ban áo lạnh cho các quan, đặt lễ thu-yến (VSL 1101). Thái-hậu đem tiền kho chuộc con gái nhà nghèo đã phải thế thân để trả nợ, rồi đem gả cho những đàn ông góa vợ nhưng không có tiền cưới vợ khác (TT và VSL 1103). Sứ Chiêm tới cống. Vua sai Đỗ Anh-Hậu đi sứ Tống. Thật là cảnh-tượng thái-bình. Chỉ có cuối năm Quí-vị 1103, đầu năm Giáp-thân 1104, có loạn ở miền nam, nhưng hình như cũng không nguy-kịch mấy.

Sau khi Lý Thường-Kiệt tự đem quân dẹp các loạn Lý Giác ở Diễn-châu (1103), và Chiêm-thành ở các châu Bố-chánh (1104), ông liền tổ-chức lại quân-đội trong nước. Tháng ba năm Giáp-thân 1104, duyệt lại các đơn-vị, từ cấm-binh đến dân-quân. Đổi hai đội binh Hoàng-nam-dũng-tiếp tả và hữu ra đô Ngọc-giai. Đô là đội thân-quân, hộ-vệ vua và giữ cung-điện. Đô Ngọc-giai là đô hầu bên "thềm ngọc", tức là gần bên ngai vua. Đội binh Ngự-long được đổi ra đô Hưng-thánh đô Quảng-vũ(7). Đó là cấm quân. Còn sương-quân thì có quân của các đại-tộc, tức là quân của các nhà quan có quyền-thế, nhưng không phải họ vua; và dân-quân vừa cày vừa làm lính, gọi là điền-nhi. Quân của nhà quan đổi thành línhVũ-thắng. Điền-nhi đổi ra lính Thiết-lâm. Sách VSL chép rõ những sự cải-cách trên. TT chỉ nói : "tháng ba, lại đổi hiệu các cấm-vệ-binh".

5. Dẹp loạn Lý Giác
Nhưng sau khi Thường-Kiệt rời khỏi Thanh-hóa, dân miền nam lại có kẻ manh-tâm làm loạn. Tuy rằng Nghệ-an được củng-cố phòng-thủ hơn trước, ở đất Diễn-châu có Lý Giác chống với quan-quân. Tương-truyền rằng Giác học được phép phù-thủy, dùng âm-binh sai khiến quân lính giả, bện bằng rơm, bằng cỏ. Giác bèn chiêu-tập những kẻ vô-lại, chiếm Diễn-châu, đắp thành để làm loạn. (TT)

Sách CM chép lại chuyện trên theo TT, nhưng có thêm nhiều chi-tiết sau, mà không thấy ở sách hay bia cũ nào chép cả. Có lẽ CM lấy ở một thần-tích nào chăng ? Tin loạn Lý Giác báo về đến kinh, vua hỏi quần-thần ai có thể cầm quân dẹp nổi. Các quan đều trỏ Lý Thường-Kiệt, tuy rằng bấy giờ ông đã 85 tuổi. Vua nói : "Giặc Lý Giác kiệt-hiệt. Nên chọn tướng trẻ tuổi mà địch nó. Thường-Kiệt dự việc binh đã lâu năm, nay đã già rồi. Nếu nay Trẫm lại còn giao cho việc quân, thì không đành lòng Trẫm muốn đãi kẻ lão-thần". Thường-Kiệt cúi đầu tâu rằng : "Tôi từ trước, chưa từng học mưu lược của kẻ làm tướng. Thế mà đánh Chiêm, phạt Tống, may được thành-công. Đó là nhờ đức thiêng của Bệ-hạ, và sự gắng của các tướng-thần. Nay nhờ ơn nước, tôi được ngôi cao, lộc trọng thế này. Nếu cứ ngồi yên xem giặc Giác làm kiêu, thì tôi sẽ chết không nhắm được mắt". Rồi ông tình-nguyện đi đánh. Vua ban lời khen ngợi, và bằng lòng để ông đi.

Diễn-châu là đất phía bắc tỉnh Nghệ-an và có lẽ gồm một ít đất Thanh-hóa. Thường-Kiệt đem quân đến đánh. Lý Giác thua, bỏ chạy vào Chiêm-thành. Dư-đảng bèn tan.

Việc loạn Lý Giác này cũng như việc đánh Chiêm-thành năm sau, có lẽ không phải là một cuộc xuất quân quan-trọng như CM có ý kể lại trên đây. VSL không hề chép hai việc ấy. Còn VĐUL chỉ nói qua về Lý Giác mà thôi. Dẫu sao, chuyện Lý Giác có kết-quả là gây lại mối chiến-tranh với Chiêm-thành một lần nữa.

6. Đuổi quân Chiêm
Lý Giác chạy trốn vào Chiêm-thành, nói rõ tình-hình trong nước ta cho vua Chiêm nghe. Theo TT, vua Chiêm bấy giờ là Chế ma-na; Maspéro nói là Indravarman II. Có lẽ Giác mách vua Chiêm rằng từ khi Nhân-tông thân-chính, về vũ-bị không gia-ý như trước. Cho nên vua Chiêm đem quân vào chiếm lại các đất Lâm-bình, Minh-linh và Bố-chánh mà Chế-củ đã nhường cho ta.

Tháng hai năm Giáp-thân 1084, vua Lý sai Thường-Kiệt đem quân vào đuổi. Quân Chiêm thua. Chế ma-na phải trả lại ba châu ấy. (TT)

Như trên đã nói, việc đánh Chiêm-thành này không kịch-liệt. Đó chỉ là một cuộc tuần-biên. Một mình TT chép chuyện mà thôi. Các sách VSL và VĐULđều không nói đến. Các bia đời Lý cũng không bia nào ghi việc ấy cả. Nhưng nếu ta xét lịch-sử bang giao Chiêm-Việt từ lúc Tống-Lý chiến-tranh, ta cũng có thể hiểu được rằng cuộc xung-đột lần nầy có thể xẩy ra, nhưng cũng chẳng quá một cuộc xích-mích ở biên-thùy.

Trước đó, Chiêm-thành đã nghe lời Tống, đem quân chực đón đánh quân ta, trong khi quân Quách Quì tấn công mặc bắc để dồn quân ta xuống cõi miền nam (1076-1077). Nhưng sau, thấy quân Tống phải rút lui, Chiêm-thành lấy làm lo, sợ ta trả thù. Vì vậy, trong năm 1077, Chiêm sai sứ tới nước ta; và sứ-thần Chiêm, khi tới Biện-kinh cùng một lúc với sứ ta, đã tìm cách tránh mặt (XII/3). Sách VSL chép rất kỹ về việc sứ Chiêm tới, và còn cho ta biết rằng từ năm 1081 đến 1091, năm nào sứ Chiêm cũng đến cống vua Lý. Trong khoảng ấy, vua Lý cũng có sai Mạc Hiển-Tích đến nước Chiêm một lần (TT 1084). TT nói là để đòi lễ tuế-cống, nhưng có lẽ không phải, vì mấy năm liền, Chiêm không hề thiếu cống.

Năm 1092, vua Chiêm hơi đổi ý. Nhân sứ Chiêm tới Tống, vua Chiêm xin Tống đem quân đánh Lý, và hẹn sẽ tập-kích để yểm-hộ. Vua Tống nói rằng : "Chiêm-thành có thù cũ với Giao-chỉ. Hiêïn nay, Giao-chỉ vẫn giữ thần-tiết vào cống thường-thường. Vậy khó lòng bàn việc cất quân đánh Giao-chỉ". (TB 470/1a).

Chiêm-thành nghỉ cống trong ba năm. Năm 1094, lại bắt đầu sai sứ đến triều Lý, hoặc một, hoặc hai năm một lần (8), cho đến hết đời Lý Nhân-tông. Nhưng chính năm 1103, không thấy sử chép Chiêm tới cống, mà năm 1104 lại có. Xemvậy, ta có thể hiểu rằng, đó là vì có Lý Giác xui-giục Chiêm-thành vào đánh nước ta. Vua Chàm sẵn thù vua Lý, nên bị lầm, tưởng nước ta bấy giờ yếu, nên mới đem quân vào chiếm miền nam. Nhưng khi Thường-Kiệt kéo quân vào, thì quân Chiêm liền lui. Vua Chiêm lại sai sứ tới Thăng-long như cũ (VSL 1104). Vả Thường-Kiệt cũng không có ý kéo quân vào chiếm thêm đất Chiêm. Bấy giờ ông đã 85 tuổi. Tuy không hăng-hái như trong trận năm1069, nhưng già như vậy mà còn cầm quân đi xa hơn ngàn dặm, so với chuyện Mã Viện đời Hán cũng chẳng kém gì.

7. Huân-dự cuối cùng
Vua Nhân-tông nghị công ông đánh-dẹp, đem vũ-uy làm chấn-động từ Tống đến Chiêm, bèn chế bài hát để tán-dương công-trạng. Rồi ban ông chức : Triều-quốc thái-úy, thủ thượng-thư-lệnh, khai phủ nghị-đồng-tam-ti, kiêm ngự-sử đại-phu, dao thụ chư trấn tiết-độ-sứ (NBS).

Nhưng tuổi già, ông không chịu nổi gian-lao trong cuộc đuổi quân Chiêm. Năm sau, vào tháng 6 năm Ất-dậu 1105, ông mất tại kinh-đô. Thọ 86 tuổi (NBS chép 87). Các sử TT và VSL đều chép như trên. TT và VĐUL có thêm : vua tặng quan-chức tước-lộc như sau : Nhập-nội-điện đô-tri kiểm hiệu-thái-úy, bình-chương quân-quốc-trọng-sự, Việt quốc-công, thực-ấp vạn hộ (9).

Vua lại phong cho em là Thường-Hiến nối tước hầu. Theo NBS, vua ban tên thụy là Mục-uyên.

Nhữ Bá-Sĩ nói mộ Lý Thường-Kiệt đặt tại làng Yên-lạc, huyện Kim-động, tỉnh Hưng-yên ngày nay (10).

Đầu đời Lý Anh-tông, niên-hiệu Thiệu-minh (1138), vua sai trấn quan lập đền ở núi Ngưỡng-sơn (Thanh-hóa), tại nhà Thọ-đường (chắc là sinh-từ), bên cạnh chùa Linh-xứng, mà ông đã từng dựng lên. Vua lại sai dân hai tổng (NBS chép tổng, nhưng chế-độ tổng là đời sau mới đặt ra) Ngọ-xá và Hoàng-xá phụng-sự. Mỗi năm có ban quốc-tế (NBS). Đời Trần Nhân-tông, năm đầu niên hiệu Trùng-hưng (1285), vua ban sắc, phong ông tước Trung-phụ-công. Năm Trùng-hưng thứ 4 (1288), lại gia-phong hai chữ Dũng-vũ. Đời Trần Anh-tông, năm Hưng-long thứ 21 (1313), lại tấn-phong làm Uy-thắng-đại-vương (đó là theo NBS, VĐUL chỉ nói gia-phong hai mỹ-tự Uy-thắng mà thôi). Về đời sau, nhiều lần được phong thêm hai chữ mỹ-tự. Cho đến đời Tự-đức thứ 29, 1876, đã có 258 chữ. (NBS)

Trong sổ Bách thần-lục đời Tự-đức, Lý Thường-Kiệt chỉ được liệt vào trung-đẳng, và thường có hiệu Quảng-uy Lý tôn-thần, hay Mục-uyên vũ-dũng thần, hay Thái-úy Việt-quốc-công tôn-thần, hay nói tắt Lý Thái-úùy tôn-thần.

Ngày nay, còn có một vài nơi có đền thờ Lý Thường-Kiệt. Đền chính ở xã Ngọ-xá, phủ Hà-trung (Thanh-hóa). Theo bia NBS thì huyện Kim-động (Hưng-yên), và huyện Vĩnh-thuận (gần trường đua ngựa ở Hà-nội), cũng có đền. Trong mục-lục sách VĐUL, có chép đền ông ở Gia-lâm-hương. Nhưng nay không rõ ở đâu nữa.

Đền mà NBS nói ở các làng thuộc Kim-động (nay, một số ăn về huyện Đông-an), thì không phải thờ Lý Thường-Kiệt (11). Đền Vĩnh-thuận, thì nay có lẽ là một ngôi đền nhỏ, lẫn vào những nhà dân làm nghề trồng rau ở làng Vĩnh-phúc, gần đua-ngựa. Kẻ thủ-từ, cho đến dân làng, cũng không biết đích-xác thần là ai nữa. Mà xét ra, thì đền cũng không giữ được dấu vết gì xưa.

Đền Ngọ-xá tuy cũng nhỏ, nhưng ở vào địa-thế rất đẹp. Đền ở xa thành-thị, nên còn giữ được tính-cách một miếu thần. Theo bia NBS ở đền, thì đền nầy lập từ đời Lý Anh-tông (1138), nhưng sau bị đổ nát. Đến đời Lê Trung-hưng, vua Lê tin rằng thần đã giúp mình đánh Mạc, nên sai dân xã Ngọ-xá trùng-tu, và cấp cho 20 suất tảo-lệ, và 18 suất lệ-phu coi việc tế-tự và giữ đền.

Năm Cảnh-hưng thứ hai (T.Zu 1741), vua sai theo lệ trước lập đền ấy. Giao cho dân ba thôn Bùi, Đồ, Thị trông coi việc tế-tự. Những kẻ sung vào việc đền đều được tha hết thuế, dịch khác. Năm Cảnh-hưng Bính-thân 1776, lại gia phong cho đền hai chữ tối linh, nghĩa là rất thiêng (theo tựa thần-tích ở làng Ngọ-xá).

Những điều ban ấy, thì trước năm 1942 đã bỏ hết; nhưng miếu vẫn còn. Miếu ở phía tây Đò-lèn, cách cầu xe lửa chừng hai cây-số. Miếu dựng trên bờ bắc sông Lèn (Nga-giang), ở chân nam núi Ngưỡng-sơn. Về kiến-trúc, miếu không có gì đặc-biệt. Chỉ có ba gian nhà ngói sơ-sài, trên một nền đất cao. Trong đền, tự-khí chỉ có ba hương-án với một ngai và đồ ngũ-sự bằng gỗ mà thôi. Vật gì cũng là đồ mới, đơn-sơ. Trên thềm miếu có hai tấm bia, là đồ cũ hơn cả. Bia ở phía tây, là bia NBS, mới làm và khắc đời Tự-đức thứ 29 (1876). Bia ấy khá lớn, chữ khắc cả hai mặt. Bài bia là thần-tích do Nhữ Bá-Sĩ, là một nhà nho-học có tiếng trong đời Thiệu-trị, Tự-đức ở Thanh, soạn theo thần-tích cũ, lại có tham-khảo Việt-sử, Tống-sử và các sử khác. Tuy trong đó có những sự chép sai lầm, nhưng đối với các ký-tải khác, thì đầy-đủ hơn cả.

Bia đặt phía đông là bia chùa Linh-xứng, nay đem vào để gửi đó. Bia khắc đời Lý. Chữ còn rất rõ, nét rất tốt (Xem ảnh III). Bia nhỏ hơn bia NBS, làm bằng đá xanh thớ mịn. Không trang-sức. Những chữ triện ở "trán" đẹp, và nhất là con rùa đội bia lại có vẽ mỹ-thuật. Bài văn bia và bài minh rất dài, khắc hết cả hai mặt bia. Người soạn văn bia là một vị cao-tăng đã từng làm việc dưới quyền Lý Thường-Kiệt. Trong chương XV sẽ nói rõ về bài bia này.

Trước đền có đám đất hoang, hơi trũng, hình như là một cái hồ cũ. Trước vườn có cửa tam-quan gồm bốn cột gạch sơ-sài. Trước cửa là đường đê, thông-lộ từ huyện Nga-sơn đến huyện Vĩnh-lộc. Bên kia sông, có đền thờ Lý Thường-Hiến, có vẻ tráng-lệ hơn nhưng lại không có bia đời Lý.

8. Dư-luận
Công-trạng Lý Thường-Kiệt lớn-lao như thế. Đời Lý đã rất được tán-dương. Các bia Linh-xứng, Báo-ân và Hương-nghiêm đã ghi lại một vài lời tán-tụng.

Trong lời minh ở bia LX, Hải-chiếu đại-sư đã viết :

Nguyên văn : Nghĩa là

Việt hữu Lý-công, Việt có Lý-công,
Cổ-nhân chuẩn thức Theo dấu người cổ.
Mục quận ký ninh, Coi quận yên dân,
Chưởng sư tất khắc. Đánh đâu được đó.
Danh dương cực Hạ, Tiếng động cõi xa,
Thanh chấn hà-vực. Danh lừng Trung-thổ.
Tông-giáo qui-sùng, Dựng phúc chốn này,
Cảnh phúc thị thực. Qui sùng Phật-tổ.

Bia BA có những câu ca-tụng huân-nghiệp ông rằng : " Đồ lâm đại-tiết, ngôn thụ chuyết-lưu. Tín hồ : lục xích chi cô khả thác, bách lý chi mệnh khả ký. Quyết hậu, nãi thệ vu sư ; bắc chinh lân-quốc, tây thảo bất đình. Thiện thất túng thất cầm chi thắng địch. Phi Hán hữu Hàn Bành chi công, khởi Tề hữu Quản Yên chi liệt. Duy Công phụ quân, quốc-gia ân phú đa lịch niên, sở khả thùy thần-đạo thiên-cổ chi hi-tích dã. " Nghĩa là : " Mưu thì đương được tiết lớn, lời thì nhận được mệnh to. Vua trẻ mồ-côi có thể gửi cho ông ; lệnh sai đi có thể giao cho ông. Sau, ông dốc lòng về việc quân : bắc đánh nước láng giềng, nam phá nước không phục-mệnh. Hay thắng địch bằng cách bắt rồi lại thả. Chẳng phải như công Hàn Tín, Bành Việt, ở Hán ; há không bằng công Quản Trọng, Yến Anh ở Tề hay sao ! Thật, ông giúp vua, làm nước nhà giàu mạnh đã lâu năm. Như thế có thể để lại muôn đời cái chính-tích sáng láng của kẻ bầy tôi đó ! "

Bia STDL tán-dương vũ công đời Nhân-tông có những câu :

" Trên ngôi yên lặng, quanh nước vỗ-về. Thình-lình biên-lại làm xằng ; đến nỗi bắc-thùy có biến. Dồn-dập ruổi quân cự-địch, ầm-ầm sấm động ra uy. Thành Ung-châu ức nghìn quân giặc, tan-tành như trận gió cuốn mây ; sông Như-nguyệt trăm vạn binh thù, vỡ-lở như mặt trời đốt giá. Tuy ngoài trận, tướng-quân ra sức ; nhưng trong cung, hoàng-thượng bày mưu. Từ đó về sau, ngôi cả thảnh-thơi, nhân-dân phú-thọ. Gió nhân thổi hóa dân ngu, mưa huệ thấm nhuần cõi lạ. Vua Chiêm Sạ-chế, bỏ cung-thất xin tới làm dân ; chúa nước La-vu, lìa sơn-hà sang qui chịu phục. Chúng đều dốc chí kính tôn, nghiêng lòng theo dõi. "

Chỉ cần nhắc lại rằng bấy giờ vua Nhân-tông mới lên mười tuổi, thì ta đủ hiểu rằng lời khen trên qui vào Lý Thường-Kiệt là kẻ vừa cầm quyền vừa cầm quân.

Đời Trần tuy không có văn tán-dương công-trạng Lý Thường-Kiệt để lại, nhưng sách Việt-điện u-linh viết đời ấy, còn chép chuyện ông, và nói vua Trần Nhân-tông phong sắc thần cho ông. Thế cũng đủ biết danh ông còn lừng-lẫy ở đời ấy. Chỉ tiếc rằng Lê Văn-Hưu, trong Đại-Việt sử-ký, không để lại một lời bàn.

Đầu nhà Lê, Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại-cáo, có nói rằng hào-kiệt nước ta đời nào cũng có ; cho nên " Triệu Tiết nghe tiếng giật mình ! ". Đó là một câu để ca-tụng kín-đáo Lý Thường-Kiệt.

Trong đời Lê Thánh-tông, văn-học đại-thịnh. Tuy đối với những kẻ hoạn-thần, sử-gia đã có lòng khinh-dể, nhưng Ngô Sĩ-Liên khi chép đến trận Ung-châu, cũng phải phê-bình : " Vua Tống ban tên thụy cho Tô Giàm là Trung-dũng, cũng đủ làm rạng lòng trung-dũng của Lý Thường-Kiệt " (TT)

Đặng Minh-Khiêm (đậu Hoàng-giáp đời Hồng-đức thứ 18, năm 1497) có bài thơ vịnh Lý Thường-Kiệt trong Thoát-hiên vịnh-sử-thi :

Đệ huynh chỉ-xích thị minh-quang
Tài lược kiêm ưu hữu mão dương.
Bắc phạt, nam chinh, huân-nghiệp trước.
Thù phi môn ngoại tiểu điêu-đương.

Nghĩa là :

Anh em chầu-chực chốn đền đài,
Tài lược gồm hay, lại đẹp giai.
Đánh bắc, bình nam, huân-nghiệp rạng
Hoạn-thần nhưng khác lũ hầu-sai.

Dư-luận đời Hậu-lê thường chú-ý đến sự Thường-Kiệt là một hoạn-quan, hoặc có ý tiếc rằng sự-nghiệp ấy không vào tay một nho-thần, hoặc có ý tự-phụ rằng hoạn-quan nước Việt còn thế, huống chi nho-thần ! Tự-nhiên, đó chỉ là những dư-luận của nhà nho, nhờ chữ nho mà nay còn sót lại. Còn dư-luận của các hạng người khác ra sao, thì ta không thể biết được.

Ngô Thì-Sĩ là người đã chịu khó khảo-sát các sách Trung-quốc để tăng-bổ đoạn sử Lý Thường-Kiệt. Ông đã phê-bình nhiều về họ Lý. Thì-Sĩ viết : " Nước ta với Bắc triều đánh nhau nhiều lần, khi thắng, khi bại. Sau đó, Ngô Tiên-chúa được trận ở Bạch-đằng, Lê Đại-hành giết giặc ở Lạng-sơn. Trần Nhân-tông bại Toa-đô, bắt Ô-mã-nhi, đuổi Thoát-hoan. Ấy là những việc mà nước ta thích khoe. Nhưng những cuộc thắng trận ấy, đều vì giặc đến trong nước ta bất-đắc-dĩ mà chống. Bên mỏi, bên nhàn khác nhau ; thế chủ, thế khách chênh-lệch. Đến như, bày trận đường-đường kéo cờ chính-chính ; mười vạn quân kéo thẳng sâu vào đất khách ; phá quân ba châu như chẻ trúc ; lúc tới cõi không ai dám địch ; lúc rút quân không ai giám đuổi ; dụng binh như thế, chẳng phải nước ta vốn chưa từng có bao giờ ? Vậy cho nên, tôi cho rằng việc các châu Ung, Liêm, Khâm là vũ-công đệ nhất từ xưa nay ở nước ta. Lý Thường-Kiệt khởi thân là một quan hoạn, mà lập được nhiều công lạ liền-liền. Người Tống thật phải xấu-hổ !

" Hoặc có kẻ hỏi tại sao không gióng trống thẳng tiến ? Nếu không đến kinh-đô nhà Tống, thì cũng lấy lại đất của nhà Triệu ta xưa. Xin trả lời : Phải biết người, biết ta. Trăm trận mà không biếng, đó là phép dụng vũ hay đó. Xét thấy nhờ việc này, mà ta trương vũ-uy. Người Tống thấy ta mạnh, bèn nghĩ đến cách lấy ân-ý mà đãi ta. Từ đó về sau, nghi-lễ cống-sính, lời-lẽ văn-thư, đều không sách-hoạch lôi thôi nữa... " (SK 1076 và Việt-sử tiêu-án).

Qua đời Nguyễn, nghị-luận cũng quanh-quất trong hai ý ấy : tán-dương vũ-công, chú ý đến sự xuất-thân là hoạn-thị. Từ vua Tự-đức trong Việt-sử ngự-chế tổng-vịnh, qua bia Nhữ Bá-Sĩ, cho đến người phê-bình nhân-vật chép trong VĐUL, đều lặp đi lặp lại hai ý ấy.

Ngày nay chúng ta không thành-kiến, có thể xét sự-nghiệp Lý Thường-Kiệt một cách công-minh.

Đọc hết đoạn sử này, ai cũng phải nhận rằng Lý Thường-Kiệt đã có công đặc-biệt đối với vận-mệnh nước ta : là mở cõi miền nam và miền bắc, chống thắng cuộc xâm-lăng của nước ngoài và củng-cố biên-thùy mọi mặt, khiến các lân-bang kính-nể.

Đạt được mục-đích ấy là nhờ dân ta đời Lý đã đông-đúc. Lại nhờ kẻ cầm quyền đã biết tổ-chức binh-đội, biết lợi-dụng đức-tính bền-bỉ của nông-dân ở đồng-bằng, tập-tính giỏi nghề đi sông đi bể của dân miền bể và sự hiểu thiên-thời, địa-lợi của dân thượng-du.

Trái lại, tuy Tống có của-cải nhiều, binh-mã giỏi, tướng có kinh-nghiệm, vua có chí to, nhưng những cái sở-trường ấy dùng không hợp với mục-đích xâm-lăng, không hợp với địa-hình, thời-tiết miền nam. Cũng tướng ấy, quân ấy, nếu để ở biên-thùy băÙc thì chắc có thể ngăn cản được quân Liêu, Hạ. Nhưng vua Tống lại đem chúng tới vùng nóng-nực, rừng núi, xa làng-mạc chúng. Chỉ nêu danh-nghĩa đem quân đi phạt man-di, thì có lẽ chỉ làm phấn-khởi lòng các tướng-tá, vì họ mong thắng trận rồi được thăng chức-tước. Nhưng đối với quân ô-hợp lượm ở miền bắc, thì chỉ có sự mong muốn cướp-bóc, hiếp-chóc, họa may mới làm chúng chiến-đấu hăng-hái. Khốn nỗi, quân chưa từng xuống đến miền giàu có, mà đã bị thiệt-hại nhiều rồi. Cho nên không ai có lòng chiến-đấu.

Lý Thường-Kiệt đã biết đem sự bất-kỳ chống với sự mạnh, đem chỗ mình giỏi chống với chỗ địch kém, đem quân được nghỉ ngơi đợi quân phải mệt-nhọc, đem sự nhẫn-nại chống với sự kiêu-căng, và nhất là lấy nghĩa sinh-tồn của một dân-tộc đối với lòng cầu danh của một vài nhân-vật địch. Đó là những cớ chính làm cho quân Lý thắng và quân Tống phải thua.

Công Lý Thường-Kiệt là to. Tài cầm quân Thường-Kiệt là cao đã đành, mà đến chính-sách nội-trị và ngoại-giao của Thường-Kiệt cũng khéo. Thường-Kiệt lại không tự-ái quá, biết trọng quyền-lợi chung. Nếu không, thì sao khi vua còn nhỏ, ông cầm hết quyền-bính và quân-đội trong tay, mà không bắt chước Lê Hoàn hay Lý Công-Uẩn, chỉ ra một lệnh là cướp được ngai vàng ? Nếu không, thì sao khi thấy tình-thế ngoại-giao với Tống trở nên khó-khăn bởi mình, ông lại chịu bỏ ngôi tể-phụ mà ra lủi-thủi ở trấn Thanh-hóa ?

Tuy sách-sử ta chép chuyện sơ-sài. Nhưng xét qua những sự còn ghi trong những sách Tống ta cũng hiểu được ít nhiều đức-tính của Thường-Kiệt.

Chỉ tiếc rằng riêng về cá-tính của ông, thì không có những chứng làm cho ta biết rõ ràng hơn. Những lời nói mà bia Nhữ Bá-Sĩ và sách Cương-mục còn chép, vào khoảng đồng-ấu và lúc già, thì không có gì chắc-chắn. Sợ đó chỉ là lời sáo-ngữ mà sử-quan hay người viết thần-sắc và dã-sử đã bịa ra mà thôi. Chỉ có một điểm mà ta chắc-chắn, là thái-độ của Thường-Kiệt đối với đạo Phật. Tuy ông không mê đạo, nhưng ông cũng đã che-chở các tăng-đồ, và ít ra, cũng đã dựng chùa Linh-xứng ở Thanh-hóa.

Chùa ấy nay cũng đã mất. Ngoài cái bia chùa còn lại, tuyệt-nhiên không còn có vật gì kỷ-niệm một vị ân-nhân của dân-tộc ta. Tưởng nay đã đến lúc ta có thể đền-bù công đức của Lý Thường-Kiệt.

CHÚ-THÍCH
(1) - Bia HN chép việc chữa Hương-nghiêm, có nói : " năm Đinh-tị 1077, sư Đạo-dung nhờ Lưu Khánh-Đàm chữa chùa. Khánh-Đàm nghe lời, bèn nói chuyện ấy với quốc-tướng thái-úy Lý-công..." Chữ tướng đây là tể-tướng. 1.

(2) - Sách TT chép chuyện Lê Hoàn đánh các tướng nhà Đinh, là Đinh Điền, Nguyễn Bặc ở Tây-đô (979 TT 1/7b). Nhân dó chú-thích: " Hoàn người Ái-châu, đóng đô ở Hoa-lư; cho nên sử gọi Ái-châu là Tây-đô ".

Năm N. Ng 982, Lê Hoàn đi đánh Chiêm-thành, đem quân từ Hoa-lư qua đường núi, qua huyện Thạch-thành, Vĩnh-lộc, đến đền Đồng-cổ (ở xã Đan-nê, trên trung-lưu sông Mã), từ đó đến sông Bà-hòa (?), đường núi hiểm-trở, binh-mã phải khó-nhọc. Đường bể thì bị sóng gió. Cho nên Lê Hoàn sai đào "Hải đạo tân cảng", nghĩa là sông mới trên đường bể. Đến năm 984 mới xong (TT). Có lẽ đó là sông nối sông Thần-phù ở Ninh-bình và sông Chính-đại ở Thanh-hóa, mà ngày nay còn dùng.

Năm K. Su 989, Lê Hoàn thân-chinh Dương Tiến-Lộc, vì Tiến-Lộc không chịu nghe lệnh thu thuế ở Hoan-châu, và Ái-châu (TT và VSL).

Năm Q. Ti 993, phong con thứ năm, Long-Túng, làm Định-phiên-vương, ở vùng Ngũ-huyện-giang (TT). Năm G. Ng 994, phong con thứ mười, Long-Mang, làm Nam-quốc-vương ở châu Vũ-long (phía nam Thanh-hóa). (TT).

Năm T. Su 1001, Lê-Hoàn thân-chinh giặc Cử-long ở Thanh-hóa. Trông thấy Hoàn đằng xa, tướng giặc trương cung nhắm bắn, thì tên rơi. Lại trương cung bắn lần thứ hai, thì cung gãy. Nên giặc sợ mà lui quân. Hoàn bèn đưa thuyền vào sông Cùng-giang đuổi theo. Bị giặc nấp hai bên sông bắn. Con Đinh Tiên-Hoàng là Vệ-vương Tuấn tử-trận. Hoàn kêu trời ba tiếng, rồi thúc quân đột chiến, giặc bèn thua (TT và VSL). Nhữ Bá-Sĩ trong Thanh hóa-chí đã nhận thấy rằng huyện Cẩm-thủy có tổng Cự-lữ và các xã Lữ-thượng, Lữ-trung, Lữ-hạ và nói đó là do tên Cử-long xưa mà ra. Nếu Cử-long là Cẩm-thủy, thì sông Cùng-giang cũng không xa đó. Nhưng VSL chép hai lần sự vua Lý Nhân-tông đi xem đánh cá ở Cùng-giang (1101, tháng 2 và tháng 9) và lúc tháng 2, lại đi xem cày ở Ứng-phong (phủ Nghĩa-hưng ngày nay, theo CM). Không biết rằng đó là sông Cùng-giang khác, hay là cũng là sông Cùng-giang kia ở Thanh-hóa, nhưng gần phủ Nghĩa-hưng. Hoặc ấy là sông Chính-đại đã nói trên chăng ? Thế cũng có lý, vì dân Cử-long có thể đã xuống đánh vùng Nga-sơn ngày nay, cho nên măm 1001, Lê Hoàn vào dẹp ở đó. Tôi tin như thế là đúng, vì bốn năm sau, là năm 1001, dân Cử-long lại tới đánh cửa Thần-đầu, tức là Thần-phù. Dân Cử-long chắc là dân Mường ở các huyện thuộc miền bắc và tây-bắc Thanh-hóa.

Năm A. Tị 1005, sau khi Lê Hoàn mất, các con tranh nhau ngôi. Đông-thành-vương chạy vào Cử-long, rồi bị Long-Việt đuổi theo, bèn chạy vào Chiêm-thành, nhưng bị giết ở cửa Kỳ-la (Hà-tĩnh). Long-Việt lên ngôi, liền bị Long-Đĩnh giết. Trong khi Long-Đĩnh đi đánh các anh em ở mọi nơi, thì nghe dân Cử-long lại vào cướp, và đã đến cửa Thần-đầu (Thần-phù). Long-Đĩnh đi thuyền tới đánh tan. (TT)

Năm Q. Ma 1003, Lê Hoàn đi chơi Hoan-châu (TT). Có ghé thăm Thanh-hóa và viếng chùa Hương-nghiêm (bia HN).

Năm K. Zu 1009, tụi Ngô Đô-Đốc, Kiều Hành-Hiến xin đào sông đắp đường, dựng bia chỉ đường ở Ái-châu. Long-Đĩnh sai quânvà dân Ái-châu đào sông và đắp dường từ cửa quan Chi-long, qua núi Đỉnh (hay Hạng TT), đến sông Vũ-lung. Long-Đĩnh lại đi chơi Ái-châu. Tới sông Vũ-lung. Tục truyền rằng ai lội qua sông ấy hay bị chết đuối. Long-Đĩnh sai người lội qua lại ba lần, mà không việc gì. Bèn sai đóng đò để bốn chỗ trên sông, cho người qua sông (TT). Về Chi-long, sách Thiên-hạ lợi-bệnh thư có nói Chi-long-quan ở huyện Chi-nga, tức là Nga-sơn ngày nay. Sông Vũ-long, chữ nho viết là trái với văn, lung là thủy với long. Bia HN có chép tên đất Vũ-long, nhưng là múa và long là rồng. Theo nghĩa văn bia, thì đất ấy ở phía nam sông Lương. Chắc rằng Vũ-lung và Vũ-long là một. Sông Vũ-lung có lẽ là sông Ngọc-giáp ở phía nam huyện Quảng-xương ngày nay.

Năm M. Ta 1008, Long-Đĩnh đánh Ái-châu (VSL, còn TT nói đánh Hoan-châu), bắt người ta bỏ cũi mà đốt. 3.

(3) - Năm T. Ho 1011, tháng 2, Lý Thái-tổ đem đại binh đánh diệt hẳn giặc Cự-long, bắt được thủ-lĩnh đem về. (TT và VSL)

Năm K. Ti 1029, dân giáp Đãn-nại nổi loạn. Tháng 4, Lý Thái-tông thân-chinh. Dẹp yên (TT, VSL). Sai dân Đãn-nại đào sông Đãn-nại (TT)

Năm T. Vi 1031, Thái-tông đi đánh Hoan-châu (TT, VSL). Ghé chơi Ái-châu, qua thăm chùa Hương-nghiêm (bia HN).

Năm A. Ho 1035, Ái-châu có loạn, tháng 10 Thái-tông thân-chinh. Xử tội mục-trưởng Ái-châu (TT, VSL).

Năm Q. Vi 1043, tháng giêng, Ái-châu lại nổi loạn. Vua sai hoàng-thái-tử Khai hoàng-vương dẹp yên (TT, VSL).

Năm C. Da 1050, dân giáp Long-trì thuộc Ngũ-huyện-giang ở Ái-châu nổi loạn. (VSL).

Năm T. Ma 1051, sai kiêu-vệ tướng-quân Trần Nậm đem người Ngũ-huyện đào sông Cá-Lẫm. 3.

(4) - TT chép Văn-Thịnh bị đày lên miền nguồn Thao-giang, (Thượng-lưu sông Nhị). Nhưng VSL chép : bị đày lên nguồn Lương-giang. Làng Bối-lý (XV/3) có sinh Lê Quát, đậu trạng-nguyên đời Trần Minh-tông. Tục truyền rằng ông là dòng-dõi Lê Văn-Thịnh. Vậy sự Lê Văn-Thịnh bị đày vào Thanh-hoá có lẽ đúng. Vả chăng đất Thanh-hóa là đất để giam tù-nhân. Ví-dụ năm 1128, đày dân làm loạn ở Quảng-nguyên vào Thanh-hóa (TT). 4.

(5) - Thực ra tên Nghệ-an đã có từ năm 1036. Tháng tư năm B. Ty 1036, Lý Thái-tông đặt hành-doanh ở Hoan-châu ở Nghệ-an (TT). Nhưng bấy giờ còn chỉ là một châu. VSL nói năm 1101, đổi Hoan-châu ra Ngệ-an-phủ. Nhưng trong các đời sau, chỉ thấy sử chép Nghệ-an-châu mà thôi, ví-dụ TT 1128, 1073, 1131, 1132, vân vân. 4.

(6) - VSL chép tháng chạp năm N. Ng 1102 có lập-xuân. Theo phép lịch, thì năm ấy phải là năm nhuận, và có hai tiết lập-xuân. Còn TT chép vào tháng giêng. Nay xét lịch nhà Tống thì năm ấy có tháng sáu nhuận. Vậy chắc VSL chép đúng. Còn TT có lẽ thấy sử cũ chép tiết lập-xuân vào mùa đông tháng chạp, cho là vô-lý, cho nên tự chữa. 4.

(7) - Năm 1118, Nhân-tông chọn 350 con trai hạng đại-hoàng nam mạnh khỏe, để sung vào các đô Ngọc-giai, Hưng-thánh và Ngự-long-binh (TT). Xem vậy, hình như tên Ngự-long không bỏ. 4.

(8) - Theo VSL, từ khi bị Lý Thánh-tông đánh bại đến hết đời Nhân-tông , Chiêm-thành sai sứ cống vua Lý, vào những năm sau này : 1073, 1075, 1077, 1081, 1082, 1083, 1084, 1085, 1086, 1087, 1088, 1089, 1091, 1094, 1095, 1097, 1098, 1099, 1102, 1104, 1105, 1106, 1108, 1110, 1111, 1116, 1118, 1120, 1126. - 6.

(9) - Bia LX, dựng sau khi Lý Thường-Kiệt mất, kê đủ các chức tước của ông như sau : Suy-thành, Hiệp-mưu, Thủ-chính, Tá-lý, Dực-đới công-thần, Thủ thượng-thư-lệnh, Khai phủ nghị đồng-tam-ti, Nhập-nội nội-thị-tỉnh-đô đô-tri, Kiểm-hiệu thái-úy, Kiêm ngự-sử đại-phu, Dao-thụ chư-trấn tiết-độ-sứ, Đồng-trung-thư môn-hạ bình-chương-sự, Thượng-trụ quốc, Thiên-tử-nghĩa-đệ, Phụ-quốc thượng-tướng-quân, Việt-quốc-công, Thực-ấp nhất vạn hộ, Thực thật-phong tứ-thiên-hộ. Nghĩa là : Kẻ bầy tôi có công, trung-thành, bày-mưu, cầm tiết, giữ chính, giúp việc, phò-tá; coi việc ti thượng-thư, được quyền mở phủ, ngang với tam-ti, được vào nội, coi tất cả các viêïc chầu trong cung, lĩnh chức thái-úy đứng đầu các quân; kiêm chức ngự-sử đại-phu kiểm-soát việc chính; ở Kinh coi việc quân tất cả các trấn, cùng coi việc bí-thư, hằng ngày đến gần vua bàn việc; hàm thượng-trụ-quốc; đã có công bắt được tướng giặc; em nuôi vua; chức thượng-tướng giúp nước; tước quốc-công, hiệu Việt; được phong lộc hạng một vạn hộ; được thật-phong lộc bốn nghìn hộ.

Bia BA (dựng trước khi ông mất) kê có khác một vài chữ như sau : chữ hiệp ở bia BA viết khẩu thập, ở LX viết thập ba chữ lực; Chữ nghị-đồng thì BA viết khâm-đồng; chữ phụ-quốc thì BA viết khai-quốc. 7.

(10) - Về mộ Lý Thường-Kiệt, bia Nhữ Bá-Sĩ nói là ở làng Yên-lạc ở phủ Khoái-châu, tỉnh Hưng-yên. Không biết rằng Bá-Sĩ chép sự ấy theo ai, nhưng có lẽ theo sổ các vị thần được ghi vào điển-bộ. Chính trong sách ĐNNTC, soạn đời Tự-đức, cũng chép rằng huyện Kim-động có đền thờ Lý Thường-Kiệt.

Nhưng theo các làng thuộc tỉnh Hưng-yên khai các vị thần thờ trong hạt, để trả lời một cuộc điều-tra của viện Bác-cổ năm 1938, thì những làng Yên-lạc và lân-cận (Cao-quán, Hoàng-vân-ngoại, Hoàng-vân-nội, Thổ-khối, Kim-tháp nay thuộc huyện Đông-an (Phủ Khoái-châu kiêm-lý), và Đào-xá, Tượng-cước, Bình-cầu, Vũ-xá, Đề-cầu, Lôi-cầu thuộc Kim-động) đều khai tên thần mình là đức-thánh Lác và tên là Đỗ Anh-Vũ. Nhưng đến khi kể thần-tích, thì phần lớn đều kể chuyện của Lý Thường-Kiệt đánh Chiêm-thành và đánh Tống.

Đền chính là đền Yên-lạc, nay cũng thuộc về huyện Đông-an; cho nên thường chỉ gọi thần là đức thánh Lác mà thôi, vì tên tục làng là Lác. Làng còn có đám đất chừng tám mẫu gọi là cấm-địa, trong đó có mộ của thần.

Vì sao có những sự mâu-thuẫn như thế ? Và đức-thánh Lác đính là ai ?

Thủa xưa mộ thần có một bia lớn, nhưng nay đã "chìm" mất. Đó là theo lời người làng Yên-lạc. Họ lại kể chuyện rằng vì trẻ chăn trâu thường đốt lửa cạnh bia, cho nên bia đã vỡ và lấp xuống đất mất. Nhưng làng còn bản sao bia ấy. Tuy kẻ chép lại có bỏ sót hoặc viết sai một vài chữ, và tuy rằng bản sao không có niên-hiệu và tên người làm bài bia, nhưng tôi đã xét kỹ nội-dung bài văn bia, thì thấy rằng bia ấy thật dựng từ đời Lý, và dựng vào năm 1158. Ngoài những chứng như cách dùng chữ hư-tự Nãi, Yên, giống ở các bia đời Lý khác, ngoài những chuyện chép khá phù-hợp với sách TT, còn có một chứng rất chắc-chắn là sự sau này. Bia có chép rằng Lý Anh-tông lấy con gái họ Đỗ tên Thụy-Châu. Việc ấy trong TT không có. Nhưng trong VSL lại có (VSL 1175). Ta biết rằng sách VSL đã viết vào đời Trần, vàbị mất ở xứ ta, có lẽ vào khoảng đời Minh Vĩnh-lạc. Sự bia và VSL có chép tên Đỗ Thụy-Châu, mà TT không chép, bắt buộc ta phải kết-luận rằng ví-phỏng bài bia kia có kẻ bịa ra, thì ít ra cũng từ đời Trần. Nhưng cũng không có gì khiến ta nghĩ rằng bài bia đã bị bày đặt, như các thần-tích khác. Huống chi bia này là một mộ-chí, kể chuyện một người vừa mất, chứ không phải chuyện một vị thần. Vậy ta có thể tin rằng mộ-chí kia thật dựng lên đời Lý.

Mộ-chí ấy là mộ-chí Đỗ Anh-Vũ, làm thái-úy đời Lý Anh-tông, chứ không phải là mộ-chí Lý Thường-Kiệt. Mặc dầu bia NBS và sách ĐNNTC nói Lý Thường-Kiệt táng và có đền ở làng Yên-lạc, mặc dầu các làng ở Kim-động và Đông-an khai chuyện đức-thánh Lác y như chuyện Lý Thường-Kiệt, mộ-chí ở làng Yên-lạc buộc ta phải nhận rằng đức-thánh Lác là Đỗ Anh-Vũ, đúng như tên khai bởi các làng thờ thần.

Thế thì tại sao lại có sự hồ-đồ ấy ? Có lẽ vì những cớ sau này. Nguyên là Đỗ Anh-Vũ cũng làm đến chức thái-úy ở đời Lý như Lý Thường-Kiệt. Mà theo mộ-chí Anh-Vũ lại được vua ban họ Lý. Cho nên cũng gọi là Lý thái-úy, y như Thường-Kiệt, lại thêm, dòng đầu ở mộ-chí có đề "Cự Việt quốc Thái-úy Lý công thạch-bi minh tự ", nghĩa là bài tựa của lời khắc vào bia quan thái-úy họ Lý người nước Cự-Việt(tức là Đại-Việt). Nếu kẻ đọc bia chữ đã mờ mà không để ý thì dễ nhầm ra Việt-quốc-công thái-úy Lý-công nghĩa là Lý Thường-Kiệt. Chức tước của Đỗ Anh-Vũ cũng dài và gần giống như chức tước Thường-Kiệt. Chức-tước ấy như sau (Những chữ giống chức-tước Thường-Kiệt sẽ viết xiên) : Suy trung, Hiệp-mưu, Bảo-tiết, Thủ-chính, Tá-Lý, Dực-đái công-thần; Thủ thượng-thư lệnh, Khai phủ nghị đồng tam ti; Nhập-nội nội-thị tỉnh-đô đô-trị, Kiểm hiệu thái-úy, Kiêm ngự-sử đại-phu; Dao-thụ chư trấn Tiết-độ-sứ, Đồng trung-thư, minh-chính bình-chương-sư; Thương-trụ-quốc, Thiên-tử tứ tính. Đặc tiến Phu-quốc thượng-tướng-quân. Nguyên-soái đại-đô-thống.

Gặp thời loạn-lạc, hoặc đời Lê, hoặc đời Nguyễn, thần-tích làng Yên-lạc đã mất. Các làng thờ đức-thánh Lác không còn thần-tích nữa. Tuy vậy, ai cũng còn biết tên thần là Đỗ Anh-Vũ. Đến khi phải khai sự-tích thần mình, thì không mấy ai để ý đến mộ-chí kia, hoặc họ chỉ xem qua dòng đầu mà cho đó là mộ Lý Thường-Kiệt, hoặc họ chỉ nhớ rằng thần là Lý Thái-úy làm quan đời Lý, có công dẹp giặc; rồi họ cho đó là Lý Thường-Kiệt. Vì vậy, tuy có mộ-chí, tuy người làng biết thần là Đỗ Anh-Vũ có tên trong quốc-sử, nhưng họ lẫn công-lao với công-lao của Lý Thường-Kiệt. Còn người ngoài thì lầm tưởng mộ và đền là của Lý Thường-Kiệt.

Mộ-chí này dài, có chép một ít tên đất, tên người và những sự-tích rất có ích cho sự kiểm-soát sách TT và VSL. Tiếc vì nay chưa tiện bới đất tìm bia, cho nên ta chưa chắc-chắn tin vào văn sao được, và chưa có thể bàn một cách hoàn-toàn chu-đáo.

Nhưng mộ-chí cũng cho ta biết một điều rất quan-hệ có liên-quan đến Lý Thường-Kiệt, mà ta phải lập-tức nêu ra. Ấy là vấn-đề gốc-tích ông. Trong chương đầu sách này, tôi đã dựa theo bia NBS và sách VĐUL, và TT, mà viết rằng Thường-Kiệt người phường Thái-hòa, họ Lý; cha là An-ngữ, sung chức sùng-ban-lang-tướng và mất ở Thanh-hóa năm 1031, trong khi ông còn bé. Thế mà theo mộ-chí này thì ta thấy rằng cha Thường-Kiệt là một quan thái-úy đời Thái-tông, họ Quách, quán ở huyện Câu-lậu, thuộc Tế-giang (ở đây có lẽ có chữ viết lầm, vì Tế-giang trỏ đất gồm huyện Văn-giang ở tả-ngạn Nhị-hà, mà Câu-lậu thì lại là đất huyện Thạch-thất ở hữu-ngạn sông ấy). Nay xét các sách TT và VSL, ta thấy ở đời Thái-tông có Thái-úy Quách Thịnh-Dật là tướng mà Thái-tông sai cầm quân đánh Nùng Trí-Cao năm 1048. Có thể đó là người sinh ra Thường-Kiệt.

Nếu quả như vậy, thì tại sao Thường-Kiệt lại thành họ Lý. Mộ-chí Đỗ Anh-Vũ đã trả lời sẵn : ấy vì vua ban quốc-tính cho ông. Tuy mộ-chí không nói chuyện ấy xẩy vào năm nào, nhưng có lẽ vào năm ông được ban hiệu Thiên-tử nghĩa-nam. Vua nhận ông làm con nuôi, thì tự-nhiên cho ông họ Lý.

Trước khi tìm lại đích-xác mộ-chí này, tôi chỉ tạm-dịch đoạn có nói đến Lý Thường-Kiệt và sự liên-quan giữa ôngvà Đỗ Anh-Vũ. Đoạn ấy như sau :

"Tổ-tiên Đỗ Anh-Vũ là thái-úy họ Quách, vốn người huyện Câu-lậu thuộc Tế-giang. Quách thái-úy sinh Thường-Kiệt giúp triều Nhân-tông. Đó là quan thái-úy được vua ban quốc-tính Lý. Cha Đỗ Anh-Vũ tên là Tướng, họ Đỗ, tức là cháu ngoại-sanh (nghĩa là con chị hay con em gái) quan thái-úy họ Lý."

Xem đó, ta thấy rằng các thần-tích, dẫu là xưa như những chuyện chép theo sách Việt-điện-u-linh, cũng rất đáng nghi-ngờ. Nhất là khi các thần-tích ấy chép rõ các chi-tiết vụn-vặt, thì lại càng nên nghi-hoặc.

Mộ Yên-lạc đã là mộ Đỗ Anh-Vũ, thì mộ Thường-Kiệt ở đâu ? Ở làng Ngọ-xá không hề nghe nói đến mộ ông. Mà mộ cũng không thể ở phường Thái-hòa được, vì đời Lý, phường này còn ở trong thành Thăng-long. ¨Phải chăng rằng ông đã hỏa-táng và tàn được giấu vào ngôi tháp nào chăng ? Hay là có mộ ở nơi nào nhưng nay chưa biết. Trong mục-lục sách VĐUL, có chú-thích dưới hiệu ông mấy chữ Gia-lâm hương. Ấy muốn nói đền chính thờ Lý Thường-Kiệt là ở làng Gia-lâm (sau thành huyện). Vậy có lẽ tìm kỹ-càng, ta còn có thể thấy mộ và mộ-chí của ông trong địa-hạt Gia-lâm ngày nay. Làng Gia-lâm cũng không xa làng Yên-lạc bao nhiêu; có lẽ cũng vì lẽ ấy, mà người đời sau lẫn với nhau hai vị thái-úy đời Lý cùng được ban quốc tính. 7.

(11) - Bài tựa thần-tích ở đền làng Ngọ-xá có chép lại mấy câu trong sắc thần cũ : "Anh-hùng xuất thế, văn vũ tư kiêm. Bảo đại định công, nẫm chẩn uy-thanh ư tuyệt-vực; khang dân thọ quốc, truờng lưu tuấn dự ư thanh-biên" nghĩa là : Anh hùng hơn chúng, văn-vũ gồm hay. Giữ đạo, định công, từng rậy uy-thanh nơi lạ; yên dân, cứu nước, lâu còn tiếng tốt sử xanh. 7.