Người
Cơ Tu hay Ca Tu, Ka Tu, K’Tu, còn được gọi Ca Tang, Gao, Hạ,
Phương là một dân tộc thuộc ngôn ngữ Môn-Khmer chủ yếu
sống ở Lào và Việt Nam. Ở nước ta, với một dân số hơn
sáu vạn người, họ cư trú dọc dãy Trường Sơn, ở tỉnh
Thừa Thiên Huế 24% tổng số (A Lưới, Phú Lộc) và nhất
là ở tỉnh Quảng Nam 75% tổng số (Đông Giang, Tây Giang) và
ở Đà Nẵng (một vạn người), TpHồChíMinh (khoảng 100 người).
Hồi thập niên 40, học tiểu học, tôi ở nhà anh tôi ở Vĩnh
Điện, tỉnh lỵ Quảng Nam, hằng năm thấy người Thượng
xuống buôn bán, đổi chác, không phân biệt dân tộc, thường
được gọi là Mọi : họ là người Cơ Tu. Thu hái lâm thổ
sản, họ biết trồng trọt theo lối làm rẫy, thao tác những
dụng cụ thô sơ như rìu, dao, gậy. Ngoài ra, họ còn biết
chăn nuôi, đan dệt, đánh cá, săn bắn. Làm rẫy mỗi năm
chỉ có một mùa, gieo mùa xuân, gặt mùa thu, cây lương thực
chủ yếu là lúa, sắn, bắp. Tuy nhiên cũng thấy có vài ba
cây ăn trái : chuối, mít, thơm, chanh, đu đủ,...Để tránh
mất mùa đói kém, chính phủ khuyên họ sống định cư trong
một ngôi làng thường trực, giữa một khu vực canh nông và
chấp nhận những kỹ thuật trồng trọt có hiệu quả chắc
chắn : trồng lúa trong ruộng nước, dùng trâu bò cày bừa,
sử dụng phân bón,...Vì vậy từ hai đến ba vạn người Cơ
Tu tùy nơi ngày nay sống trong những dãy chòi tranh gọi là
nhà
đong, lúc đẩu nhà sàn, bây giờ sát đất, sắp đặt
thành hình tròn hay hình thuẩn, hàng rào bao quanh là cây đặt
chổng có sợi mây buộc lại với nhau, ra vào có hai cửa.
|
|
Nhà
đong
|
Nhà
gươI
|
|
|
Nhà
sàn
|
Nhà
dài
|
Giữa
làng có một ngôi nhà truyền thống lớn gọi là nhà gươI,
một bảo tàng nghệ thuật sống, là cầu nối giữa con người
với vũ trụ, nơi lưu giữ những giá trị tinh thần thiêng
liêng, nơi gửi gắm niềm tin vào thần linh, ông bà, tổ tiên.
Tương đương với nhà rông của các dân tộc Ba Na, Ê
Đê ở Tây Nguyên hay đình của người Kinh, nhà gươI
được
dựng lên nhờ công sức của mọi người trong làng. Trong đời
sống hằng ngày, đó là nơi hội họp, tiếp khách chung, khi
có lễ lạt, hoạt đông văn hóa, tụ tập chuyện trò vui chơi
và cũng là nơi trình bày những chiến tich săn bắn. Là linh
hồn của làng,
nhà gươI là nơi của đời sống tâm
linh, người Cơ Tu không được cải vã, ẩu đả nhau ở trong
ấy. Về mặt kiến trúc,
nhà gươI có hình dáng một
trái xoài, một cột cái ở giữa và tám cột con xung quanh,
mái lợp bằng lá nón hay lá mây. Trang trí có những bức phù
điêu trên vách, chạm trổ nhưng con vật sinh động, trâu,
trăn, đầu trâu, tắc kè, kỳ đà,... những cảnh sinh hoạt
thường ngày, đàn ông đánh trống, đàn bà bồng con. Trong
nhà
gươI còn có trình bày nhiều loại nhạc cụ, nhiều công
cụ truyền thống, những đầu thú săn bắt hay đă giết
chết trong các lễ hội. Là biểu tượng của buôn làng, nhà
gươI
lớn hay nhỏ tùy uy quyền và sức mạnh của làng
đó, làng nào không có tức là không còn gốc truyền thống
văn hóa nữa. Vì vậy, bà con trong làng đều ra tay chung sức
xây dựng hay báo quản cho nhà gươI luôn được vững
bền, đẹp đẽ.
|
|
Nhà
moong
|
Nhà
mô
|
Những
gia đình khá giả, khuôn viên đất ở rộng, thoáng mát, thường
có bố trí bên cạnh hay phía trước nhà một nhà moong,
phù hợp với điều kiện địa hình, không gian và môi trường
tự nhiên của rừng núi. Theo những người già am hiểu phong
tục tập quán của người Cơ Tu thì
nhà moong là nhà
gươI biến thể, thu nhỏ, mái hình mu rùa, có khi chóp nón,
có khi mái cao trông tựa nhà rông Tây Nguyên. It được
chạm trổ hơn nhà gươI, không có cột cái, chỉ có
nhiều cột nhỏ xung quanh, một cửa nhỏ đơn giản, nhà
moong thường có bên trong một cái cầu thang nhỏ để lên
xuống như ở kho lúa miền Thượng. Là biểu tượng kiến
trúc nhà độc đáo không thấy trên vùng Trường Sơn, nhà
nầy cũng được làm từ các vật liệu lấy từ trong rừng
như mây, gỗ, tre nứa, lá nón hoặc lá tranh, lá mây, lồ ô
dùng để làm phên vách chung quanh ngôi nhà. Nhà moong
thuộc loại kiến trúc nhà ở độc đáo mang sắc thái đặc
thù truyền thống văn hóa vật chất liên hệ mật thiết với
mức sống của dân cư. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân
gian, nhà moong là công trình mang tính sáng tạo nghệ
thuật cao và quý giá. Nó có vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống và sinh hoạt hằng ngày, trong lao động sản xuất,
săn bắn, hái lượm và cả trong các dịp lễ hội của gia
đình và của cộng đồng Như nhà gươI,
nhà moong
cũng
được dùng để tiếp khách mức gia đình, ăn uống khi có
lễ lạt, ma chay, cưới hỏi và lắm khi là nơi hẹn hò của
thanh niên thiếu nữ đưa đến kết duyên vợ chồng. Trai trẻ
Cô Tu có phong tục ngủ duông hay
lướt zướng
ăn nằm với nhau vài đêm trong lúc chờ đợi tổ chức lễ
cưới truyền thống. Có một vài gia đình không đủ sức
để cất nhà moong nhưng có thế đất đẹp, thì làm
cái sạp tre đơn sơ để hóng gió, nghỉ ngơi sau suốt ngày
nương rẫy mệt nhọc. Một khu vườn rộng rãi, từ trên cao
nhìn xuống, gần mặt đường là điều kiện lý tưởng để
bố trí ngôi nhà moong của gia đình. Tại làng văn hóa
về nguồn thôn Bờ Hồng xã Sông Kôn, bốn ngôi nhà moong
trình bày một diện mạo đặc sắc của dân tộc Cơ Tu là
một điểm hẹn không thể bỏ qua trong những chuyến tham quan
miền Thượng, một nơi dừng chân không thể thiếu sót cho
những du khách ham chuộng kiến trúc độc đáo, hằng mong khám
phá văn hóa các dân tộc ít người.
Lễ
đâm trâu
Trong
làng có nuôi trâu nhưng không nhất thiết dùng để cày ruộng
mà cốt yếu để cúng Giàng (tức là Trời) và các và thần
linh. Lễ hội hàng năm thường diễn ra trước mùa tỉa lúa
hay trỉa lúa nghĩa là gieo trồng bằng cách tra hột lúa trong
lổ rồi lấp đất lên, trong sân hay trong lều dựng lên giữa
sân làng. Lễ hội cũng còn để ăn mừng được mùa Bhuối
Aví, ăn mừng nhà gươILang tơrí, ăn mừng lúa mới
Cha
ha roo tơmêê, ăn thề
Pơ Ngoót (kết nghĩa anh em giữa
hai làng)..., thường phải chuẩn bị trước, đặc biệt cây
xờ
nur (cột buột trâu) cần được trang trí hoa văn. Sau khi
dựng
xờ nur, họ nhảy múa, khóc tế
nơơi trâu
suốt đêm. Đối với người Cơ Tu, trâu biểu hiện cho quyền
lực, uy tín của làng. Ðêm khuya ở núi rừng, nghe những già
làng khóc tế trâu nghe nói thật não nề. Thông qua khóc tế,
họ kể về nỗi khổ ải do thiên tai, mất mùa không có cái
ăn cái mặc, bệnh tật ốm đau không có tiền mua thuốc chữa.
Họ cũng thương con trâu cả một đời lam lũ vì con người,
nay phải hiến dâng cho thần linh, cho Giàngchỉ vì họ muốn
cầu xin sức khỏe, làm ăn phát đạt ! Thủ tục cúng bắt
đầu từ tang tảng sáng, khi mặt trời mới ló dạng. Khúc
nhạc cúng cồng chiêng vang dậy trước khi dân làng cùng nhau
nhảy múa quanh con trâu được chọn để cung hiến. Sau đó
đoàn cồng chiêng và múa chính thức biểu diễn điệu múa
mừng. (A)n nhịp với tiết tấu của cồng chiêng lanh gọn,
đôi tay trần của phụ nữ Cơ Tu mềm mại uyển chuyển uốn
lượn. Con trâu hốt hoảng chạy quanh
xờ nur cho đến
lúc họ dùng giáo đâm ba lát. Nó gầm thét, khụy chân xuống,
nhưng qua lát thứ ba trúng vào tim thì sống phút cuối cùng,
miệng há hốc, nước mắt chảy dài. Người Cơ Tu tin là nếu
trâu lúc ấy quay đẩu về hướng
nhà gươI là điềm
tốt. Họ rút ngọn giáo, đổ nước suối vào vết thương,
băm cuộn lá chuối rừng lên xác trâu để tăng lượng huyết
ứ và giữ thịt lâu hư. Họ cũng còn lấy rượu, nước,
gạo, muối rãi lên đẩu trâu để linh hồn nó yên nghĩ bên
kia thế giới. Bây giờ hết còn nhạc múa chính thức nhưng
dân các thôn bản láng diền lại chung vui, cùng nhau múa hát
ăn mừng, hy vọng tận hưởng những điều tốt lành trong
năm.
Múa
Cơ Tu trên sân khấu Nogent-sur-Marne Tết Ất Mùi
Giống
như những dân tộc miền núi Trường Sơn, đồng bào Cơ Tu
ăn mặc rất giản dì. Nếu ngày nay, đặc biệt ở giới trẻ,
âu phục được ưa chuộng, trước đây việc sử dụng trang
phục thổ cẩm truyền thống còn diễn ra trong cuộc sống
lao động, sinh hoạt hằng ngày : đàn ông cởi trần đóng
khố, đàn bà vải yếm che ngực, váy ngắn ngang chân. Nam nhi
còn vấn khăn, khổ loại bình thường, ít màu sắc, khi có
lễ hội mới có khăn trang trí màu sắc hoa văn. Khi họ mặc
áo cột tay thì trang trí hoa văn đối xứng, với những vạch
sọc có khoảng cách đều nhau dệt thành ba màu vàng, đỏ
và trắng trông nổi bật trên nền vải chàm đen. Mùa lạnh
họ thêm khăn choàng dài, trang trí băng truyền thống trắng,
đỏ, xanh trên nền màu chàm. Nữ giới tóc dài thả buông
hay búi ra sau gáy. Mùa lạnh, họ mặc áo chui đầu khoét cổ,
thân ngắn tay cộc. Loại áo đơn giản nầy là hai miếng vải
khổ hẹp gập đôi, khâu sườn trừ chỗ tiếp giáp trên làm
cổ. Váy ngắn cũng được may cắt tương tự với hai mảnh
vải khổ hẹp gập lại thành hình ống. Các hoạ tiết hoa
văn ở phần thân váy thường đứng riêng lẻ bằng cách vạch
sọc như hoa văn ablơm (hoa tình yêu), lá trầu, dây buộc
nhà
gươl, múa da dá... màu sắc đơn giản, các hoạ tiết hoa
văn được thể hiện dưới dạng hình học hoá. Nếu áo váy
giản dị, đồ trang sức có phần phong phú hơn. Phụ nữ Cơ
Tu thích mang vòng cổ, vòng tay, có khi mỗi cô năm bảy chiếc.
Ngoài các vòng cổ bằng đồng hay sắt, họ còn mang khuyên
tai bằng gỗ, xương hay đồng xu, các chuỗi hạt cườm, vỏ
sò, mã não. Có cô đội trên đầu vòng tre kết nút hoặc
dây rừng trắng rơnơk
thêm lông chim. Cả nam lẫn nữ
nhiều vùng đến tuổi trưởng thành nhằm vào lúc lễ đâm
trâu có tục lệ cưa răng. Tục nầy cũng như tục xăm mình,
xăm mặt dần dần được loại bỏ. Tuy nhiên, gần đây, việc
khôi phục các lễ hội truyền thống cũng như các làng nghề
dệt thổ cẩm truyền thống nhằm góp phần bảo tồn và phát
huy những trang phục thổ cẩm đặc sắc của đồng bào dân
tộc Cơ Tu được chú trọng. Một số văn hóa đặc sắc,
bảo tồn theo hướng cha truyền con nối được quy định,
thông qua việc người dân trực tiếp dạy lại cho người
dân và hiện nay đang phát triển, các nghệ nhân dạy lại
cho các em, các cháu.
Múa
Cơ Tu trên sân khấu Nogent-sur-Marne Tết Ất Mùi
Nói
chung, hiện nay việc xây dựng văn hóa của người Cơ Tu ở
Quảng Nam đang được đặt mạnh. Ðược vậy là vì,
theo Gs Nguyễn Ngọc Hòa, đội ngũ trí thức người Cơ Tu rất
đa dạng, được hình thành và phát triển trong quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Hơn nữa, hiện họ lại có
vị trí quan trọng trong đời sống xã hội,đặc biệt trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và xây dựng
đời sống văn hóa nói riêng tại địa phương. Huyện Tây
Giang chẳng hạn với dân số Cơ Tu hơn 90% dân số của huyện,
72 trưởng thôn, già làng có uy tín thì có nhiều tiềm lực
bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa dân tộc. Các huyện
Ðông Giang 73%, Nam Giang hơn 50% dân số của huyện cũng có
khả năng nối gót. Nhà GươI truyền thống hay sân làng
là nơi thao diễn những hoạt động văn hóa của đội ngũ
trí tuệ. Ở đây, các nghệ nhân có dịp sáng tác những nhạc
cụ, cải thiện nghệ thuật điêu khắc, tập luyện đánh
cồng chiên, múa tan tung
Za Zá, đặc biệt cho các em trẻ,
một phương cách giữ gìn hữu hiệu bản sắc văn hóa dân
tộc. Ðây cũng là nơi các gìà làng, dưới ánh trăng thanh,
quanh đống lửa ấm, kể chuyện cổ Cơ Tu, cội nguồn dân
tộc, sự tích dòng họ, phong tục tập quán, không những chỉ
cho học sinh mà còn cả cho thanh niên, cán bộ. Một già làng
đáng kính như Cơlâu Năm vốn đã biết nhiều nhờ ông cha
kể lại, còn chịu khó lặn lội khắp các thôn bản hỏi
han sưu tầm và vận dụng trí nhớ ghi vào ký ức nhưng truyện
cổ xưa. Nghệ nhân điêu khắc Bhríu Pố chạm trổ những
cảnh tượng phản ảnh cuộc sống sinh hoạt lên
nhà mô,
nhà
gươI, nhiều nghệ nhân dân gian tham gia xây dựng mô hình
nhà
gươI và nhà moong.
Múa
Cơ Tu trên sân khấu Nogent-sur-Marne Tết Ất Mùi
Qua
thời gian chiến tranh và ảnh hưởng đời sống mới, dân
cư, nhất là loại trẻ, ít hiểu văn hóa cội nguồn, không
thấy quan trọng phong tục tập quán nên không lo chăm sóc di
sản ông bà, từ đó nhà gươI nhiều thônxuống cấp
và mất dần đi. Nha văn hóa tỉnh Quảng Nam rất ý thức vấn
đề nên nỗ lực phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
dặc biệt trong việc khôi phục
nhà gươI. Này nay hầu
hết các thôn Cơ Tu ở huyện Tây Giang đều có làm lại nhà
gươI. Như Gs Nguyễn Ngọc Hòa đã có viết, Tây Giang là
huyện dẫn đầu phong trào phục dựng nhà gươI. Trên
đỉnh ngọn đồi cao ở trung tâm huyện là một quần thể
làng Cơ Tu truyền thống gồm có một nhà gươI trung
tâm, 10 ngôi nhà gươI đại diện cho 10 xã của huyện.
Nét kiến trúc và trang trí mỗi nhà gươI cũng khác nhau,
mang đậm sắc thái của cư dân Cơ tu vùng cao, vùng thấp.
Ông Briu Liếc cho biết: Vì văn hoá làng là cái bảo tồn
lâu bền nhất, từ đó chúng ta sẽ xây dựng đuợc những
thể chế văn hoá khác, giữ được bản sắc truyền thống
Cơ Tu. Tôi tin rằng, văn hoá truyền thống Cơ Tu sẽ tồn tại
mạnh mẽ dưới những nhà GươI như thế!" 80% số thôn
ở các huyện Ðông Giang, Nam Giang đều đã có nhà gươI.
Ðiều này thể hiện nỗ lực của chính quyền địa phương
trong việc hỗ trợ bà con dân tộc Cơ Tu bảo tồn bản sắc
văn hóa của dân tộc mình. Theo bà Lê Thị Thủy, phó chủ
tịch UBND huyện Đông Giang, thì trên cơ sở nhà nước hổ
trợ một phần, chủ yếu là vận động nhân dân đóng góp.
Có thôn vận động được doanh nghiệp giúp đỡ. Thôn khó
khăn hơn thì tự quyên góp sức người, sức của. Khôi phục
nhà
gươI, công trình tiêu biểu của dân tộc, là giúp cho các
thế hệ sau hiểu biết và kế thừa những giá trị văn hóa
vật chất tinh thần của dân tộc mình. Đồng thời cũng khôi
phục nhà mô, ngôi nhà tâm linh, một công trình kiến
trúc độc đáo khác, chế tác công phu, khắc họa sống động,
mang tín ngưỡng dân gian hướng về tổ tiên nguồn cội lại
là một việc làm rất có ý nghĩa khác...
Ðôi
trai trẻ Cơ Tu trong nhà moong
Trong
làng, những nghề thủ công như dệt thổ cầm tại các xã
Tà Lu, A Ting, đan mây tre tại xã Sông Koon, chế biến rượu
cần t ại thôn A Dinh, thị trấn Prao được khôi phục. Những
nhạc cụ như trống, cồng, chiêng, khèn, những vật dụng
lao động sản xuất, bảo vệ săn bắn, những dụng cụ trang
trí, trang sức, trang phục được sưu tập và lưu giữ kỹ
càng. Về văn hóa ẩm thực, nhưng món cơm lam, bánh sừng trâu,
rượu tà đin, tà vạt (từ buồng cây tà vạt, thêm
vỏ cây chuồn, cho tự lên men), nói chung những sản phẩm
sẵn có trong tự nhiên hay phát xuất từ lao động được
khuyến khích và phổ biến để mọi thôn bản khai thác chế
biến sử dụng trong các lễ hội, ngày Tết, đãi khách. Tại
một số xã trên địa bàn huyện đã tổ chức sưu tầm các
truyện cổ dân gian, làn điệu dân ca, tổ chức các buổi
nói lý, hát lý ghi âm lưu giữ.Trong phạm vi hoạt động có
ý nghĩa về việc khôi phục, bảo tồn và phát huy tiếng nói
và chữ viết của người Cơ Tu, mất dần từ 1975, phối hợp
với Trường Trung cấp nghề Thanh niên dân tộc - miền núi
Quảng Nam tổ chức những lớp dạy cho cán bộ, công
chức trên địa bàn. Đồng thời các nghệ sĩ dân gian đã
phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức tiếp âm
và phát sóng chương trình phát thanh tiếng Cơ Tu, phối hợp
với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh phục dựng ghi
hình để lưu giữ và phát huy một số lễ hội như lễ hội
mừng lúa mới, lễ hội Cồng chiêng. Công tác sưu tầm, giới
thiệu, lưu giữ các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian
cũng được chú trọng. Ðến nay, huyện đã sưu tầm và biên
tập được hơn 50 truyện cổ dân gian các dân tộc Cơ tu,
Ve, Tà Riềng để chuẩn bị xuất bản trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, các loại hình dân ca, dân vũ cũng được tôn
vinh thông qua các liên hoan, các hội thi, các hoạt động văn
nghệ quần chúng ở địa phương...Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở, vẫn còn một số hạn chế nhất định. Nhận
thức về văn hóa nói chung và phong trào xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở còn chưa thấu đáo dẫn đến việc nhận diện
và đánh giá phong trào chưa xác thực. Điều này đưa đến
tình trạng phong trào xây dựng đời sống văn hóa, văn nghệ
chưa có chiều sâu. Phát triển văn hóa là một đề tài cao
siêu cần thiết rất nhiều thì giờ, chiến lược và kiên
nhẫn.
Thành
Xô cuối xuân 2015
(*)
Ảnh Cơ Tu ở Quảng Nam lấy trên internet. Điệu múa Cơ Tu
chụp hôm Lễ hội Làng tôi Tết Ất Mùi ở Pavillon Baltard
tại Nogent-sủ-Marne.
Ðọc
thêm
-Lê
Anh Tuấn, Trần Đức Sáng, Trần Đức Anh Sơn, Biến
đổi ván hóa tộc người trong bối cảnh phát triển đô thị
ở Đà Nẵng, Phát triển kinh tế-Xã hội Đà Nẵng, dised.danang.gov.vn/LinkClick.aspx?fileticket...61
-Tấn
Sỹ, Văn hóa ăn mặc của người Cơ Tu Quảng Nam hiện nay,
QRT-Ðài phát thanh truyền hình Quảng Nam , www.qrt.vn/index.php?
-Phan
Cẩm Thượng, Một thoáng văn hóa Katu, Tia Sáng 11.06.2012,
tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&News
-DTRHiep,
Nhà Moong-Công trình nghệ thuật kiến trúc quý giá của tộc
người Cơtu 23.07.2013, www.dulichthu-dong.com/tindulich_chitiet.php?..
-Lan
Anh, Nhà GươI của người Cơ Tu, Tiếng Việt 30.07.2013,
vovworld.vn/vi-VN
-TQ-DTV,
Thú vị kiến trúc nhà Moong Cơ Tu,
Văn hóa Dân tộc-Dân
tộc Cơ Tu 05.10.2012 ; Nhà GươI-Biểu tượng văn hóa
Cơ Tu, 10.10.2012
-PGS.TS.Nguyễn
Ngọc Hòa, Xây dựng đời sống văn hoá của người Cơ
Tu ở Quảng Nam, Tạp chí Tuyên giáo số 4, Cống thông tin
điện tử Quảng Nam 17.10.2014
-Bhriu
Quân, Tìm lại chữ viết Cơ Tu,Quang Nam Online, 13.03.2015
|