Để kỷ niệm 40 năm
bang giao Pháp Việt (1973-2013), sau năm Việt Pháp 2013, đến
lượt năm Pháp Việt khai mạc hôm 14.02.2014 tại Nhà hát Châtelet
ở Paris qua đêm văn nghệ Hoa sen. Trong số những đoàn
Việt Nam được mời qua biểu diễn, có Đoàn
múa Cung đình Huế với tiết mục Lục cúng hoa đăng.
Đoàn nầy còn biểu diễn tối 15.02 ở trụ sở UNESCO,
ngày 16.02 ở Nhà hát Villeurbanne. Tuy không phải lần đầu
tiên ra mắt ở Pháp, Đoàn múa cung đình Huế cùng tiết mục
Lục
cúng hoa đăng còn rất xa lạ với khán giả, Việt hay Pháp.
. Lục cúng hoa đăng, còn gọi tắt Lục
cúng, một điệu múa có từ thời
thượng cổ, do các vị sư Ấn Độ du nhập vào nước
ta. Hằng năm khi vụ mùa được bội thu, tại các nơi thờ
Phật Tứ Pháp, trong những lúc tổ chức các lễ lớn ở chùa
thường có biểu diễn vũ khúc này để dâng hương, hoa, đèn,
trà, quả, thực lên Tam Bảo. Đến nay, chưa thấy tài liệu
nào ghi lại vũ khúc Lục cúng được truyền bá rộng
rãi, đã nam tiến vào xứ Đàng Trong và kinh đô Phú Xuân thế
nào. Các vị tăng am tường và đã từng trình diễn về vũ
khúc này hiện còn sống tại cố đô Huế cũng chỉ biết
vũ khúc Lục cúng là do chư Tổ truyền lại. Tuy nhiên,
trong các thế hệ Thầy Tổ của Phật giáo xứ Huế còn có
nhiều vị rất giỏi và điêu luyện về vũ khúc này. Tác
phẩm "Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam" cho
biết đến đời Minh Mạng (1820 - 1840), vua hạ lệnh cho viện
Hàn Lâm học tập, tiếp nhận và sửa lại vũ khúc. Cái tên
Lục
cúng hoa đăng chính thức có từ thời ấy. Như vậy, Lục
cúng hoa đăng từ tính chất vốn có của nó là một loại
hình âm nhạc tôn giáo đã được tiếp thu và cải biên thành
một loại hình âm nhạc cung đình. Ngoài nhiệm vụ cúng dường,
truyền giáo, Lục cúng còn có chức năng giải trí, thẩm
mỹ.Trong suốt lịch sử tồn tại của nó, Lục cúng
luôn được thay đổi, bồi đắp và phát triển đến đỉnh
cao nghệ thuật



Như tên gọi, nội dung vũ khúc gồm có sáu phần
tượng trưng cho sáu lần cúng dường chư Phật là mục đích
của Lục cúng. Trước hết là tưởng nhớ ân sâu hóa
độ của đức Phật và qua đó là thực hành hạnh phụng
sự chúng sanh, truyền bá chánh pháp. Các lễ vật là hương,
hoa, đèn, trà, quả và oản. Mỗi phần có một kiểu bước
khác nhau : khi múa, hai vị tăng mặc áo cà sa vàng, đầu đội
mũ thất phật, chỉ cử động cổ hai bàn tay để kiết ấn,
xả ấn, hai bàn chân khẽ rê đi, dàn ra theo hình chữ nhật
(lúc dâng hương), hình liên hoa bốn cánh (lúc dâng hoa) hình
chữ á (lúc dâng đăng), hình chữ thuỷ (lúc dâng trà), hình
chữ vạn (lúc dâng quả) và hình chữ điền (lúc dâng thực).
Mỗi phần có một khúc nhạc khác nhau, lời Hán Việt, toàn
bộ mang âm hưởng điệu tán trong âm nhạc Phật giáo : tán
hoa đăng, tán hương phù, tán hoa quả, tán trí đăng, tán phật
điện, tán khế thủ, khúc nào cũng bắt đầu bằng một câu
khởi xướng và vũ sinh vừa múa vừa hát. Vì là dâng cúng
Phật, cách hát phải ngân nga, trầm bổng, điệu múa phải
dịu dàng, khoan thai. Sau nầy, có khi các vị tăng không múa
mà lại cho bốn hoặc tám em nhỏ hoá trang làm Kim Đồng -
Ngọc Nữ múa thay. Các em này đầu đội mũ trang kim, mặc
áo màu, chân có bít tất trắng, chỗ trên hai khuỷu tay có
vắt một mảnh lụa màu vàng lạt. Ứng với sáu lần múa
có sáu khúc hát, điệu hát ngân nga, du dương, trầm tĩnh.
Dứt mỗi khúc hát, nhạc công gõ vào não bạt và đánh trống
đỗ hồi.
Về trang phục, trên vai áo của các vũ sinh có
năm tua vải, tương trưng cho ngũ hành : kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ. Họ mặc áo mã tiền, trong áo lót màu lục, xiêm trường,
quần giáp, giải quần màu hồng, chàn quấn xà cạp, mang tất
trắng, đầu đội mũ vàng tượng trưng cho nhụy sen. Ở Huế
từ thời vua Minh Mạng trở về sau, đội múa có 16, 32, 48,
hay 64 vũ sinh, đội mũ hoa sen, thắt dây kết bông, trong mặc
áo lót màu lục, tay đính vỏ lừa, ngoài mặc áo mã tiên,
xiêm dài, quần giáp, giải quần màu hồng, chân quấn xà cạp,
bít tất trắng. Mỗi vũ sinh cầm trên hai tay cây đèn hình
hoa sen biểu hiện sự thanh cao, tinh khiết và là cũng nơi đức
Phật tọa thiền, vừa múa vừa hát. Đó là điểm độc
đáo, đẹp mắt của điệu múa vì trong suốt thời gian biểu
diễn những ngọn đèn luôn tỏa sáng lung linh gây ra một cảnh
tượng huyền ảo. Ngoài ra, điệu múa còn được dàn dựng
công phu, đầy tính sáng tạo, lắm khi khéo léo như trong tiết
mục chồng người. Trong cảnh Cổ la liệt chẳng hạn,
ba nam vũ sinh dàng hàng ngang gác tay lên vai nhau và dang tay ở
hai đầu hàng ngang ; người đứng giữa làm trụ cõng người
thứ tư lên vai, hai người thứ năm và thứ sáu ngồi trên
những cánh tay gác lên vai của những người đứng dưới.
Trong cảnh Cổ giá hoàng, người thứ tư đứng thẳng
trên vai người đứng giữa làm trụ. Còn trong cảnh Cổ
tướng hào, ba người đứng thành hàng ngang và ba người
khác đứng trên vai ba người nầy...
.
Lục cúng là một đàn trong bộ ba của nghi thức
Chạy
đàn : Lục cúng - Khai tịch - Bạt độ. Môi trường
diễn xướng của Lục cúng hoa đăng trong Phật giáo và trong
cung đình có sự khác nhau. Trong khi Lục cúng ở cung đình
thường chỉ được trình diễn trong các ngày lễ Thánh thọ
(sinh nhật Hoàng Thái Hậu), Tiên thọ (sinh nhật Hoàng Thái
Phi), Vạn thọ (sinh nhật vua), Thiên Xuân (sinh nhật Hoàng Thái
Tử)....và lễ Cúng Mụ, thì trong Phật giáo vũ khúc này chỉ
được trình diễn trong những hoàn cảnh đặc biệt như lễ
Lạc thành, An vị hay Lễ hội, Vía Phật nếu có tổ chức
Giải oan Bạt độ, Trai đàn Chẩn tế. Khai tịch - Bạt độ
được diễn trong đêm tổ chức đàn Bạt độ với ý nghĩa
nguyện cầu cho những người đã khuất giải thoát oan khiên.
Lục
cúng được diễn trong đêm có tổ chức đàn Chẩn tế
với ý nghĩa hoàn mỹ, vui mừng, chúc mọi người còn sống
được thái bình, hạnh phúc, an lạc. Khi Lục cúng đang
còn thịnh hành cách đây mấy chục năm, thường chỉ 10, 12
hoặc 20 vị tăng trình diễn ở các đàn tràng, hoá trang làm
chư tiên. Đại để cách phục sức ở nhà chùa cũng giống
như trong nhã nhạc cung đình đã duy trì. Nhưng áo mã tiên
được mặc kèm xà phu mặc rồng (xà cạp chỉ được mang
kèm với áo bá nạp biểu diễn trong đàn Khai tịch và Bạt
độ). Mọi người đều cầm lam ba (đèn hoa sen), riêng
hai vị thủ (hai người đứng trước có vai trò ra hiệu lệnh,
dẫn đường) thì có khi cầm não bạt (xập xoã) bằng
đồng để ra hiệu lệnh. Mọi người đều vừa múa vừa
tán. Các động tác ký vạn thọ là động tác một chân bước
lùi một bước, chân còn lại gập xuống, hai tay một cao một
thấp đưa đèn lên trong tư thế chào. Động tác này thường
kèm theo động tác xoay tròn cả người hai vòng ngược - xuôi.
Thuật ngữ Lục cúng gọi là làm bông (hai mặt
phải trái), chạy đàn song lục (nghĩa là cặp sáu bởi
vì ngày xưa 12 người trình diễn). Khi chia hai hàng thì mỗi
hàng có sáu người, xếp song song với nhau cho nên gọi là
song lục), đôn bình, nâng hoa v.v...có khi nhanh khi chậm nhưng
đều rập ràng, uyển chuyển, hoa mỹ mang tính nghệ thuật
cao.
Phụ hoạ theo các bài tán và các điệu múa,
điệu vấn, điệu chạy, điệu nhảy là một dàn nhạc giao
hưởng gồm có tang, mõ, trống, kèn, đàn, sênh, phách... Thời
gian trình diễn thường vào ban đêm, kéo dài từ một đến
hai tiếng đồng hồ. Địa điểm
diễn xướng chính là nơi đã được thiết trí sẵn cho đàn
Bạt độ, Chẩn tế Lục cúng là một loại hình nghệ
thuật kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc và vũ đạo.
Nội dung cụ thể và sinh động của nó chỉ được truyền
đạt trọn vẹn qua sự trình diễn sinh động trong một môi
trường cụ thể, phù hợp. Lục cúng của nhã nhạc cung đình
Huế hiện chỉ có sáu khúc hát : Đăng
hoa, Hương phù, Hoa quả, Trí đăng, Phật điện, Khể thủ
và Tam tự quy. Biểu trưng của sáu khúc hát là sáu lễ
phẩm : hoa, hương, đăng, trà, quả, nhạc. Trong quá trình tiếp
nhận có thêm bớt, về sau lại bổ sung thêm bài La liệt.
So với Lục cúng của nhã nhạc cung đình Huế, Lục cúng
trong Phật giáo vẫn còn bảo lưu được sự phong phú về
hình thức, sự đa dạng về nội dung.
Đặc biệt, chức năng, tính chất, môi trường diễn
xướng và mục đích của nó vẫn còn giữ gìn trọn vẹn.
Trong khi nhã nhạc cung đình Huế do môi trường diễn xướng
không còn giữ nguyên như thời phong kiến cho nên Lục cúng
của cung đình đã không còn bảo lưu được chức năng nghi
lễ của nó.

Công việc phục hồi hiện tại cũng chỉ đạt
đến 60%. Hơn nữa, do mục đích giới thiệu, du lịch là chủ
yếu, vì vậy vũ khúc này chưa bao giờ được trình diễn
có tính bài bản trọn vẹn. Trong khi ấy công việc phục hồi
vũ khúc Lục cúng này trong Phật giáo mặc dầu đã đạt
được những thành quả rõ ràng song vẫn còn tồn tại nhiều
khó khăn về nhân sự, tài chính, sự tập luyện bền bỉ.
Hiện nay, múa cung đình đang được trình diễn thường xuyên
tại nhà Duyệt thị đường trong Thành nội và Minh khiêm đường
ở Khiêm lăng, để phục vụ khách du lịch trong nước và
quốc tế. Trong các buổi trình diễn ở Paris, vũ sinh chỉ
giới hạn lại số tối thiểu nhưng bản chất điệu múa
vẫn được diễn tả trọn vẹn. Một sáng kiến tích cực
cho chiếu lên phông sân khấu những hình ảnh xứ Huế làm
tăng thêm ấn tượng những màn múa, nhắc nhở quê hương
cho những ai đã từng đi qua đất nước Hương Bình. Dù biểu
diễn với một phong cách mới, cận đại hơn, trong điệu
Lục
cúng hoa đăng cũng như trong các điệu múa khác tối đêm
Hoa
Sen, những nghệ sĩ trẻ, đẹp đã tỏ ra tha thiết với
nghệ thuật múa nói chung, múa cung đình Huế nói riêng. Khi
tìm về truyền thống dân tộc, bản sắc văn hóa cội nguồn,
các nghệ nhân cũng như những nhà trách nhiệm đã đóng góp
tích cực vào cuộc bảo tồn một di sản văn hóa trong kho
tàng nghệ thuật Việt Nam và viết vào lịch sử nhạc múa
nước nhà những trang sử quí giá.

Thành
Xô mùa xuân 2014
|
 |
(*)
ảnh chụp hai tối 14 và 15.02.2014 ở Nhà hát Châtelet và Trụ
sở UNESCO tại Paris
Tài liệu tham khảo
- Lê Tấn Quỳnh, Một cánh của ra thế giới,
Việt Báo 21.07.2007
- Việt Liên – L.Hạnh, Hôi sinh vũ khúc cung
đình Huế, Đại Đoàn Kết
21.04.2008
- Huệ Thiện, Múa Lục cúng hoa đăng, một
loại âm nhạc đặc sắc của Phật gìáo xứ Huế, 03.12.09.
Nhiều đoạn trong bài nầy đã được trích dẫn.
- Trần Văn Khê, Giá trị của nhạc cung đình
Huế, Tạp chí Sông Hương, 29.06.2009
- Trọng Bình, Múa cung đình Huế - Một giá
trị nghệ thuật, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung
đình nhanhac.com.vn