Chim Việt Cành Nam             [ Trở Về  ]           [Trang Chủ ]
Ai giết Lê Lai ? 
. Ai giết Lê Lai  ( Nguyễn Dư )
. Trao đổi ý kiến với Nguyễn Dư :Nói chuyện Lê Lai, mà Lê Lai nào ?   ( Nguyên Thắng )
. Vẫn chuyện Lê Lai, Nguyễn Dư trả lời Nguyên Thắng  (Nguyễn Dư )
. Nghe bàn chuyện Lê Lai, ... ( Nguyên Đạo )
Ai giết Lê Lai 
Nguyễn Dư
Hầu hết những người được đi học, bạo miệng hơn thì có thể nói rằng tất cả những người được đi học, đều biết chuyện "Lê Lai liều mình cứu chúa". Chuyện như sau :

Năm 1418, tại đất Lam Sơn, Lê Lợi và 18 người bạn tâm huyết khởi nghĩa chống quân Minh. Năm sau, nghĩa quân bị quân Minh vây ở núi Chí Linh.

"Quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ Bình Định Vương (Lê Lợi) lui tới, bèn đem binh đến vây đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm, mới hỏi các tướng rằng : Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu chết thay cho vua Hán Cao không ? Bấy giờ có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin mặc thay áo ngự bào, cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân Minh tưởng là Bình Định Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi  rồi rút quân về Tây Đô.
Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ mình cứu chúa, mới thoát được nạn lớn..." (Trần Trọng Kim :Việt nam sử lược, Nxb Miền nam, Hoa kỳ, tập I, tr.219).

Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú (Nxb Sử học, Hà Nội, 1960, tr.266) kể tên một số công thần nhà Lê :

"Công thần đầu nhà Lê nguyên số là 93 người, không thể chép hết được (...) Họ đều là bậc anh tài giúp vua, gặp hội phong vân trổ hết trí dũng, đều là có công đầu mở nước cả (...). Còn như Lê Thạch làm tiên phong thường thắng, Lê Lai vì nước bỏ mình, Lê Triện, Lê Lễ bày mưu lạ phá giặc, đều là tướng tài giỏi, có tiếng một thời tiếc rằng chết vì việc nước, công nghiệp chưa trọn (...)".

Phan Huy Chú ghi thêm về Lê Lai :

"Ông người thôn Dựng Tú, huyện Lương Giang (Thanh Hóa) : Lúc mới khởi binh, bị tướng Minh vây ngặt, vua hỏi các tướng, bàn xem [có ai] đổi áo đánh lừa giặc, như việc Kỷ Tín ngày xưa. Ông xin đi. Bèn mặc áo bào, đem quân xông vào hàng trận của giặc, đánh đến đuối sức, bị bắt. Vua nhân dịp trốn thoát".

Ở đoạn trên Phan Huy Chú viết "Lê Lai vì nước bỏ mình", xuống dưới lại viết "đánh đến đuối sức, bị bắt". Phải chăng vì thế mà đã khiến các thế hệ sau hiểu lầm ? Nếu Lê Lai chỉ bị bắt thì hành động"vì nước bỏ mình"của ông phải được hiểu là "vì nước bỏ chuyện riêng tư của mình", chứ không phải là "chết vì nước".

Hoàng Đạo Thúy (Đi thăm đất nước, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1978, tr.302) viết còn rõ hơn Trần Trọng Kim :

"Thiệu hóa là quê của nhiều tướng Lê : Lê Lai, tướng đã chết thay vua Lê, ở Dựng Tú, 5 km bắc Lam Sơn (...)".

Lịch sử Việt nam (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tr.244) kể lại "hành động hy sinh cao cả và lẫm liệt của người anh hùng Lê Lai" như sau :

"Năm 1419, nghĩa quân bị bao vây lần thứ hai ở núi Chí Linh. Vòng vây của kẻ thù ngày càng khép chặt và lương thực của nghĩa quân đã hết sạch hơn mười ngày. Trước tình thế đó, tướng Lê Lai xin cải trang làm Lê Lợi, dẫn 500 quân cảm tử ra đột phá vòng vây để đánh lạc hướng quân thù. Quân Minh tập trung lại bao vây để bắt sống Lê Lai và tiêu diệt đội quân cảm tử. Nhờ đó cuộc khởi nghĩa thoát khỏi một cơn hiểm nghèo.

"Lê Lai là người làng Dựng Tú (...). Cả gia đình Lê Lai gồm 2 anh em và 3 người con trai đều tham gia cuộc khởi nghĩa và 4 người đã hy sinh anh dũng trong chiến đấu. Hành động xả thân vì nước của Lê Lai đã trở thành một hình tượng anh hùng không bao giờ phai mờ trong ký ức của dân tộc ta".

Đọc đoạn sử này ta hiểu rằng gia đình Lê Lai có 5 người theo cuộc khởi nghĩa, và 4 người đã hy sinh trong chiến đấu. Còn một người sống sót, đó chính là Lê Lai, bị quân Minh bắt sống.

Lời văn tuy không rõ ràng, dứt khoát, nhưng đọc kỹ thì cũng hiểu được.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967, tập 3, tr.5-78) không chép chuyện "Lê Lai liều mình cứu chúa".

Sự thực ra sao ? Quân Minh có giết Lê Lai không ? Chắc chỉ có Nguyễn Trãi, một người trong cuộc, một nhân chứng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, mới đem lại cho chúng ta câu trả lời đúng nhất.

Sách Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi (Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976) được chính Lê Lợi đề tựa, kể rằng (tr.50) :

"Bấy giờ quân ta mới thắng nhỏ, mà thế giặc lại đang lớn mạnh, vua liền vời các tướng lại nói rằng :

- Ai có thể mặc áo hoàng bào thay ta đem 500 quân và 2 thớt voi đi đánh thành Tây Đô, thấy giặc ra đánh thì tự xưng "ta là chúa Lam Sơn", để cho gặc bắt được, cho ta có thể ẩn náu nghỉ binh, thu nhặt binh sĩ mưu cử sự về sau ?"

Các tướng đều không dám nhận lời. Chỉ có Lê Lai nói :

- Thần nguyện đổi lấy áo bào. Ngày sau bệ hạ thành đế nghiệp, có được thiên hạ, nhớ đến công thần mà cho con cháu muôn đời của thần được chịu ơn nước. Đó là điều thần mong ước.

Vua vái trời mà khấn :

- Lê Lai có công đổi áo, sau này trẫm cùng con cháu trẫm và các tướng tá công thần cùng con cháu họ, nếu không nhớ đến công ấy, thì xin điện cỏ này hóa thành rừng núi, ấn báu hóa ra cục đồng, gươm thần hóa ra dao thường.

Vua khấn xong, Lê Lai liền đem quân đến cổng trại giặc khiêu chiến. Giặc cậy binh mạnh xông ra đánh, Lê Lai cưỡi ngựa phi vào trận giặc, nói rằng :

- Ta là chúa Lam Sơn đây !

Giặc liền vây và bắt trói đem vào trong thành xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng".

Nguyễn Trãi cho biết là Lê Lai bị quân Minh bắt sống, trói đem vào thành Tây Đô và bị tra tấn dã man.

Như vậy, chúng ta thấy rằng những ai viết rằng Lê Lai bị quân Minh "bắt được giết đi" hay là Lê Lai "chết thay vua Lê", "Lê Lai vì nước bỏ mình", Lê Lai có "hành động cao cả và lẫm liệt, xả thân vì nước" là viết không đúng sự thật hoặc vô tình để người đọc hiểu lầm.

Đại Việt sử ký toàn thư chép : Tháng giêng năm 1427, "ngày 13, bọn Lê Lựu, Lê Bôi ngày đêm đánh gấp thành Khâu Ôn, người Minh tự liệu không chống được, bỏ thành trốn đi đêm.

"Giết tư mã Lê Lai, tịch thu gia sản, vì Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn nên bị giết".

Rõ ràng là Lê Lai bị "phe ta" giết. Lê Lợi hạ lệnh giết Lê Lai năm 1427, một năm trước khi đuổi sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi và lên ngôi hoàng đế.

Chi tiết quan trọng này không thấy các sách khác chép lại. Hoàn cảnh của Nguyễn Trãi không cho phép ông viết lúc Lê Lợi còn sống. Điều đó dễ hiểu. Ngô Sĩ Liên, một sử thần nhà Lê, đã chép lại cho hậu thế một sự kiện lịch sử. Ngô Sĩ Liên đã giữ đúng tác phong của một sử gia nghiêm túc. Thật đáng ca ngợi. Không hiểu tại sao các sử gia đời sau lại quên chi tiết này ?

Lê Lai bị Lê Lợi giết năm 1427, có nghĩa là ông phải được trở về với nghĩa quân Lam Sơn trước năm 1427. Năm nào ? Lam Sơn thực lục chép rằng (sđd, tr.59) :

Năm 1425, tháng 5 "Vua bèn chia hai nghìn tinh binh, hai thớt voi, sai bọn cháu ngoại là Lê Lễ, Lê Sát, Lê Bị, Lê Triện, Lê Nhân Chú suốt ngày đi ra đánh úp thành Tây Đô. Giặc đóng cửa chống giữ. Quân ta đánh vỡ, bắt được đảng giặc rất nhiều, chém hơn năm trăm đầu. Phàm nhân dân ở gần thành giặc, mảy may không xâm phạm".

Trong bài Phú núi Chí Linh, Nguyễn Trãi cũng nhắc lại chiến công này (sđd., tr.86) :

(...) Chu Kiệt bỏ cũi, Hoàng Thành phơi thây
Đất Nghệ An chiếm lại, Tây Đô thu nhanh về tay
Gạo nước đón rước
Người theo đầy đường (...)

Chu Kiệt bị bắt, Hoàng Thành bị chém ở Bồ Ải năm 1424. Nghĩa quân Lam Sơn chiếm thu Nghệ An, Tây Đô năm 1425.

Ta có thể phỏng đoán rằng Lê Lai được giải cứu khỏi thành Tây Đô trong dịp này, tức là năm 1425. Trở về với nghĩa quân, Lê Lai được Lê Lợi phong chức tư mã vì ngày trước có công giúp Lê Lợi. Lê Lợi giữ đúng lời thề năm xưa.

Từ tháng 5-1425 đến tháng giêng 1427, kể từ lúc được cứu đến lúc bị giết, trong vòng gần 2 năm, có thể Lê Lai đã tham dự vài trận đánh quân Minh. Nhưng trong tất cả các trận đánh, sử không bao giờ nhắc đến tên Lê Lai. Điều đó cũng cho phép ta nghĩ rằng Lê Lai không phải là tướng lãnh chỉ huy, không giữ vai trò quan trọng nào. Thế mà ông lại tự cho mình "có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn, nên bị giết".

Sau này Lê Lợi còn giết thêm một tư mã nữa. Năm 1432 "mùa xuân, tháng giêng, sai thân vương Tư Tề đem quân đi đánh châu Mường Lễ. Đèo Mạnh Vượng là con tù trưởng Đèo Cát Hãn ra hàng, cho ở Đông Kinh, lập làm tư mã, rồi năm sau giết chết".

Ngày nay chúng ta có thể thắc mắc tự hỏi tại sao quân Minh không giết Lê Lai ? Đọc Lam Sơn thực lụcQuân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi và Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên thì thấy rằng dường như hai bên quân Minh và quân Lam Sơn đã "thỏa thuận ngầm" với nhau rằng lúc lâm trận thì chém giết thẳng tay, nhưng tù binh bắt được thì không giết. Chỉ giết tù binh nào chống đối, mưu phản.

Năm 1418, quân Minh bắt vợ con Lê Lợi. Năm 1428 Lê Lợi xin trả lại con gái. Năm 1427, "Bí (Lê Bí) bị giặc bắt được. Sau giặc về nước, lấy lễ đưa Bí trở lại".

Lê Lễ bị bắt. "Lễ không chịu khuất, bị giết chết".

Quân Lam Sơn bắt được Cầm Bành. "Bành đã đầu hàng, chớ xâm phạm một tí gì, đều tha tội cả, không giết một người. Sau Cầm Bành mưu phản, vua sai giết chết".

Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Thái Phúc.... bị bắt nhưng không ai bị giết.

Nếu Lê Lai không chống đối, mưu phản, thì quân Minh không giết ông, chỉ giữ làm con tin.

Chúng ta có thể tóm tắt chuyện "Lê Lai liều mình cứu chúa" như sau :

Năm 1419, nghĩa quân Lam Sơn bị vây ở núi Chí Linh. Lê Lợi tìm người thay mình ra đánh quân Minh. Lê Lai tình nguyện và có "mặc cả" với Lê Lợi. Lê Lợi thề sẽ nhớ công của Lê Lai.

Lê Lai mặc áo bào xông ra trận, bị quân Minh bắt sống, trói đưa vào thành Tây Đô tra tấn.

Năm 1425, nghĩa quân đánh thành Tây Đô, cứu được Lê Lai. Lê Lai được thăng chức tư mã, tham dự vài trận đánh. Thành tích quân sự không đáng kể.

Lê Lai cậy có công, hay nói lời ngạo mạn, bị Lê Lợi giết năm 1427.

Ngô Sĩ Liên nhận xét về vua Lê Lợi như sau :

"Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 10 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, dựng quan chức, lập phủ huyện, thu sách vở, mở học hiệu. Có thể gọi là có mưu lớn sáng nghiệp. Song đa nghi hay giết, đó là chỗ kém".

***

Trong một buổi gặp gỡ bạn bè, tôi nửa đùa nửa thật đặt câu hỏi "Ai giết Lê Lai ?", thì lập tức gặp phản ứng :

- Giễu dở ! Vô duyên !

- Biết rồi ! Khổ lắm ! Hỏi mãi !

- Mẹ kiếp ! Mới ngày nào còn mài rách cả đũng quần, thế mà bây giờ để cho "bò cười" quyến rũ, quên cả chuyện "Lê Lai liều mình cứu chúa".

Có bạn còn nhắc khéo tôi rằng ở Sài gòn, đại lộ Lê Lợi và đường Lê Lai cùng "nằm gai nếm mật", suýt đụng đầu nhau tại bùng binh chợ Bến Thành. Ngoài Hà Nội, hai đường nằm hai bên Hồ Gươm như cùng tưởng nhớ tới thanh gươm thần cứu nước ngày nào.

Vâng, trang sử còn đẹp hơn nữa nếu như Lê Lợi không giết Lê Lai.

Nguyễn Dư 
(16.4.1998) 

Trao đổi ý kiến với Nguyễn Dư :
Nói chuyện Lê Lai, mà Lê Lai nào ? 
Nguyên Thắng
Nghề đọc sách cũng lắm công phu. Anh bạn Nguyễn Dư kể ra đã không ít công phu lần giở sách xưa. Khêu ra một sự kiện có ghi chép rành rành trong bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư (từ đây gọi là Toàn thư) :

Năm 1427 "giết tư mã Lê Lai, tịch thu gia sản, vi Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn nên bị giết". Mà Toàn thư lại chẳng ghi chép gì về chuyện Lê Lai liều mình chết thay Lê Lợi trong những năm đầu khởi nghĩa (1418-1419) bị quân Minh vây khổn ở núi Chí Linh. Vậy, không phải là quân Minh, mà chính Lê Lợi giết Lê Lai, vào năm 1427. Nghi án lịch sử tày đình mà không một ai thấy trước anh ?

Và anh đề nghị một kịch bản để lý giải chuyện này. Phải nói ngay rằng anh trích dẫn tư liệu lịch sử cẩn thận để dựng nên kịch bản. Thế mới lý thú.

Vậy, ta phải tin Nguyễn Dư về chuyện Lê Lai ?

Xin khoan nói chuyện tin hay không tin. Trước hết chúng ta bình tâm đọc lại sử. Bắt đầu bằng những tư liệu quan trọng anh Dư sử dụng : Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, đồng chí từ buổi ban sơ với Lê Lợi, Lê Lai, tên có trong danh sách 19 người hội thề Lũng Nhai ; Lịch triều hiến chương loại chí (từ đây gọi là Lịch triều) của Phan Huy Chú, một nhà bách khoa, một sử gia nghiêm túc và Toàn thư nói trên.

Có một Lê Lai nhân vật quan trọng trong những ngày đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Lê Lai này đứng vào hàng thứ hai ngay sau Lê Lợi trong danh sách những người hội thề ở Lũng Nhai ; gia đình ông là gia đình hào trưởng, phụ đạo thôn Dựng Tú (Thanh Hóa).

Khi quân Minh vây chặt núi Chí Linh, chuyện Lê Lai giả xưng là Bình Định Vương Lê Lợi để lừa giặc, xông vào trận, bị bắt sống tại trận tiền, Lê Lợi nhân đó trốn thoát, được Nguyễn Trãi kể khá chi tiết trong Lam Sơn thực lục ; Phan Huy Chú chép trong Lịch triều. Anh bạn Nguyễn Dư không phủ nhận chuyện này.

Nhưng anh cho là sau khi bị bắt sống, Lê Lai không hề bị quân Minh giết chết mà chỉ giam giữ ở Tây Đô. Đó là điểm khổi đầu cho kịch bản của anh, dựa vào câu của Nguyễn Trãi "Giặc liền vây và bắt trói đem vào trong thành xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng".

Anh diễn dịch "xử bằng cực hình" ra tra tấn dã man. Và từ đó không ngần ngại phủ nhận nghĩa từ ngữ "vì nước bỏ mình" của Phan Huy Chú là "chết vì nước". Cho rằng phải hiểu nó là "vì nước mà bỏ chuyện riêng tư của mình".

Anh quên đi rằng các nhà viết sử như Nguyễn Trãi, như Phan Huy Chú cân nhắc từng chữ trước khi viết ra. Không thể tùy tiện mà diễn dịch sao cũng được.

Trước hết là từ "cực hình". Luật pháp xưa có "hình" và có "luật". Hình là các hình phạt được quy định trong văn bản gọi là "hình thư". Có năm loại (ngũ hình) : xuy hình là đánh bằng roi, trượng hình là đánh bằng gậy, đồ hình là đày làm khổ dịch, lưu hình là đày phát vãng và tử hình là giết chết. Tử hình có ba bực : một là giảo (thắt cổ) và trảm (chém đầu) ; hai là khiêu (chém bêu đầu), ba là lăng trì nghĩa là chặt chân tay, xẻo thịt, làm cho chết dần.

Ngoài lăng trì còn khiêu liệt nghĩa là phân thây xé xác, hai loại hình phạt dùng từ thời xa xưa, nhưng ngoài pháp luật, để xử những tội quy là ác nghịch cực nặng. Đến đời Nguyên, lăng trì mới được ghi vào hình thư, còn khiêu liệt vẫn để ngoài. (Muốn biết rõ thêm xin bạn xem phần Ngũ hình trong Hình luật chí, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tập II, tr.305-306).

Vậy, phải hiểu "xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng" là giết chết bằng những hình phạt không có ghi trong Hình thư, ác độc có lẽ còn hơn là lăng trì.

Vậy, từ ngữ "bỏ mình vì nước", trong trường hợp Lê Lai này vẫn phải hiểu là "chết vì nước". Bị bắt sống ở trận tiền và bị giết sau đó hai việc không có gì là mâu thuẫn với nhau. Còn một nơi khác chép Lê Lai "bỏ mình vì nước" mà khung cảnh từ ngữ buộc ta phải hiểu là chết vì nước. Đó là truyện Lê Niệm (Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí, sđd. Tập I, tr.332-333) :

"Ông (Lê Niệm) người thôn Dựng Tú, huyện Lương Giang (Thanh Hóa), cháu Lê Lai. Cha ông là Lê Lâm theo vua đi đánh giặc Ngô có công, sau đi đánh Ai lao làm tiên phong trúng chông sắt chết được tặng thiếu úy".

Khi Lạng sơn vương Nghi Dân giết Lê Nhân Tông (1459) mà chiếm ngôi vua, Lê Niệm đang làm xa kỵ vệ coi tất cả việc quân, ông cùng các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt bàn mưu đem cấm binh giết đảng nghịch, bỏ Nghi Dân đón Lê Thánh Tông lên ngôi. Vì công đó ông được phong Suy trung bảo chính công thần, làm nhập nội tư mã tham dự triều chính. Bài chế văn trong dịp ấy có câu : "(...) Huống chi một nhà trung nghĩa, thương ông ngươi, cha ngươi vì nước bỏ mình (...)". Chế văn là lời của vua, đây là Lê Thánh Tông. Cha Lê Niệm bị chết trận, đặt song song Lê Lâm (cha) vvói Lê Lai (ông) thì chỉ có thể hiểu "vì nước bỏ mình" là cả hai đều chết vì nước. Đồng thời chế văn này cũng khẳng định rằng các vua triều Lê nối tiếp nhau đời đời ghi nhận công đức Lê Lai hy sinh chết thay Lê Lợi.

Ấy là chưa kể đến các tư liệu khác mà bạn Nguyễn Dư không nhắc tới. Theo lời dặn của Lê Lợi con cháu nhà Lê sau này bao giờ cũng làm giỗ Lê Lai vào ngày hôm trước ngày giỗ của Lê Lợi (22 tháng 8 âm lịch), vì vậy trong dân gian có câu "Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi". Các bộ Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Việt sử Thông giám Cương mục đều chép việc Lê Lai hy sinh. Và còn gia phả họ Lê Lai mới tìm ra sau này.

Thế là, phải gượng ép ngữ nghĩa và bỏ rơi không kể đến nhiều tư liệu quan trọng thì mới dựng được lên việc Lê Lai người thôn Dựng Tú bị giặc bắt trong những năm đầu khởi nghĩa Lam Sơn nhưng không bị quân Minh giết hại.

Kịch bản đến đó nào đã hết đâu, còn phải cho Lê Lai trở về với nghĩa quân Lam Sơn trước năm 1427. Và bạn Nguyễn Dư lại vội dẫn Lam Sơn thực lục để cho là nghĩa quân hạ thành Tây Đô vào năm 1425, giải thoát cho Lê Lai bị giam cầm ở đó.

Chuyện hoàn toàn trái ngược với lịch sử. Vì theo mọi tư liệu, kể từ Lam Sơn thực lục kể đi, quên Minh giữ được thành Tây Đô cho mãi đến sau khi Liễu Thăng bị giết. Và phải đến 1427, khi Vương Thông rút quân về Trung Quốc thì quân ta mở vây cho quân Minh thủ thành Tây Đô theo toàn quân về nước.

Vậy sao bạn Nguyễn Dư lại diễn giải như vậy. Xem lại, bạn Dư trích dẫn đúng. Nhưng phải chăng vì chăm chắm cho Lê Lai được về với nghĩa quân bạn đã hiểu sai Nguyễn Trãi đi? Mà sai rất xa.

Tháng 5 năm 1425, nghĩa quân thắng trận, bạn vội hiểu là thành Tây Đô đã bị hạ. Nhưng nào có phải thế thật đâu. Mới bị bổ vây thôi ! Quân Minh bị đánh vỡ khi ấy là quân ngoài thành, chúng rút vào thành đóng cửa chống giữ. Vì thế mà quân ta "không mảy may xâm phạm nhân dân ở gần thành giặc" nào phải là nhân dân trong thành?

Bạn chưa tin, xin lật tới vài trang nữa, Nguyễn Trãi ghi rõ: Năm Bính Ngọ (1426), "Trong một thời gian ngắn mấy thành (Điêu Diêu, Thị Cầu, Xương Giang, Khâu Ôn) đều vỡ, chỉ có Đông Đô, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh là 4 thành chưa hạ được mà thôi" (Lam Sơn thực lục, Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1976, tr.64).

Chẳng phải sức nghĩa quân khi ấy không hạ nổi một thành Tây Đô. Nhưng chiến lược của Lê Lợi xem "Đánh thành là hạ sách; ta đánh vào thành vững hàng tháng hàng năm không hạ nổi [làm cho] quân ta sức mệt khí nản. Nếu viện binh của giặc lại đến thì trước mắt, sau lưng đều bị giặc đánh, đó là con đường nguy ! Sao bằng nuôi dưỡng sức quân giữ lấy nhuệ khí để đợi viện binh của giặc. Viện binh bị phá thì thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai, đó mới là kế vạn toàn vậy" (Toàn thư, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1972, tập III, Kỷ nhà Lê, q.10, tr. 42-43).

Phá viện binh giặc, chiến lược ấy buộc phải tiêu diệt nhanh chóng những thành còn bị quân Minh chiếm đóng trên đường viện quân từ Trung Quốc kéo qua, ta thấy các thành Tam Giang trên đường Vân Nam vào đất ta, Khâu Ôn, Xương Giang, Thị Cầu, Điêu Diêu trên đường Quảng Tây đi Đông Đô bị hạ. Nói là nhanh chóng, nhưng thành Xương Giang bị công kích 9 tháng trường, chỉ phá vỡ được có 10 ngày trước khi Quân Liễu Thăng kéo tới biên giới. Còn các thành Đông Đô, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh, không nằm trên đường chiến lược, là những ốc đảo chơ vơ giữa những vùng rộng lớn nghĩa quân làm chủ thì chỉ bị bao vây thôi.

Quả nhiên Liễu Thăng bị giết, viện binh bị phá, quân Minh giữ các thành còn lại không hy vọng vào đâu được nữa. Và năm Đinh Mùi (1427), "Ngày 16 tháng chạp, tướng giặc Vương Thông, Mã Anh, Lý An, Trần Trí, nội quan Sơn Thọ, Mã Kỳ, Phương Chính, Đặc Khiêm cùng bọn chỉ huy giữ thành Tây Đô là Hà Trung, giữ thành Chí Linh là Cao Tường đưa hết số ngụy quan lớn nhỏ cùng những nhà dân nước ta bị bắt hiếp vào thành trả lại cho ta và xin được đem quân về Bắc" (Lam Sơn thực lục, đ.d. tr.68).

Toàn Thư cũng chép ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427) Lê Lợi "sai đồng tri Nguyễn Mãn và đội trung Nguyễn Lôi mang thư đến thành Tây Đô và Cổ Lộng bảo bỏ vây, vì cớ hai thành chưa hạ được" (Toàn thư, s.đ.d., Tập III, tr. 48).

Có một Lê Lai hy sinh chịu chết trong những năm mới khởi nghĩa, và từ buổi ban đầu đến khi quân ta giải vây cho tướng Hà Trung đem quân Minh về nước, nghĩa quân không hề chiếm thành Tây Đô. Nhiều sử liệu xác minh cho hai sự kiện ấy.

Tuy nhiên, chuyện có một Lê Lai bị Lê Lợi sai đem giết đi vẫn còn nguyên đó. Lý giải làm sao?

Tiềm ẩn đằng sau lý luận của ông bạn Nguyễn Dư là giả thuyết chỉ có một Lê Lai duy nhất, và vì vậy phải moi bằng cớ, uốn dữ kiện chứng minh cho được Lê Lai còn sống đến 1427. Bạn không nghĩ tới khả năng có nhiều Lê Lai.

Có chăng một Lê Lai người thôn Dựng Tú bị quân Minh giết khoảng những năm 1418 - 1419 và một Lê Lai khác bị Lê Lợi giết năm 1427?

Lam Sơn thực lục tục biên chép cả việc Lê Lai hy sinh cứu Lê Lợi và việc Lê Lai bị giết năm 1427. Vậy là mặc nhiên nhận có hai Lê Lai. Có một bản Lam Sơn thực lục tục biên được sao năm 1942 chép Nguyễn Thận người sách Mục Sơn, sau được ban họ Lê tên là Lai. Một tấm bia Phan Huy Lê tìm thấy ở Mục Sơn năm 1962 do con cháu họ Lê soạn năm Tự Đức thứ 3 (1850) chép thủy tổ táng ở nơi ấy vốn họ Nguyễn người Khoái Châu húy là Lai, tự là An được ban họ Lê; theo văn bia này thì Lê Lai chết năm 1437 "đã lấy thân thay (Lê) Thái Tổ trong cơn nguy hiểm, gần chết mà sống lại". Mặt sau bia có sắc phong thần cho Lê Văn An đề năm Cảnh Hưng 40 (1779) được con cháu khắc vào năm 1851. So lại chức tước được phong ghi ở mặt trước tấm bia thì Lê Lai này chính là Lê Văn An. Lại thêm một Lê Lai nữa cứu mạng Lê Lợi nhưng không bị chết, đặt ra câu hỏi Lê Lợi được cứu mạng mấy lần?

Mới loanh quanh vùng Thanh Hóa mà đã gặp Lê Lai người Dựng Tú, Lê Lai - Nguyễn Thận người Mục Sơn và Lê Lai - Lê Văn An táng ở Mục Sơn. Thêm tài liệu ở Đăng Cao, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh cho biết Nguyễn Bá Lai tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, có công được ban quốc tính cũng gọi là Lê Lai.

Dường như thời đầu nhà Lê khi nói đến Lê Lai thì phải nói rõ là Lê Lai nào.

Nguyên Thắng 
(23.4.98) 
Vẫn chuyện Lê Lai
Nguyễn Dư trả lời Nguyên Thắng
Nguyễn Dư
Nguyên Thắng không đồng ý với tôi, bác bỏ "kịch bản" của tôi trên 3 điểm chính:

1 - Cực hình của quân Minh dành cho Lê Lai, theo Nguyên Thắng, có nghĩa là "giết chết bằng những hình phạt không có ghi trong Hình thư, ác độc có lẽ còn hơn lăng trì".

2 - Nguyên Thắng cho rằng tôi đã "vội hiểu là thành Tây Đô bị hạ (năm 1425)", đó là "chuyện hoàn toàn trái ngược với lịch sử". Tôi đã "hiểu sai Nguyễn Trãi, mà sai rất xa".

3 - Có nhiều Lê Lai. "Khi nói đến Lê Lai thì phải nói rõ là Lê Lai nào".

Chắc chỉ có phép độn thổ mới cứu tôi được. Sách vở, tư liệu đầy cả ra đấy, phen này hết chối cãi nhé ! Thú thực là tôi... rịn mồ hôi lạnh ! Tự ti mặc cảm.

Thế là cờ đã vào thế hiểm !

Sau một đêm trằn trọc, sau một ngày "bình tâm đọc lại sử", tôi xin trao đổi ý kiến với Nguyên Thắng trên 3 điểm được nêu ra.

a-Quân Minh có giết Lê Lai không ?

Các hình phạt ngày xưa được ghi trong Hình thư, được Nguyên Thắng kể rõ ràng. Không có gì cần nói thêm. Có chăng là ở chỗ Lê Lai bị "xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng", nghĩa là không có trong Hình thư.

Nguyên Thắng kết luận là Lê Lai bị "giết chết bằng những hình phạt không có ghi trong Hình thư, ác độc có lẽ còn hơn là lăng trì".

Có thể lắm. Nguyên Thắng có 50 % lí để nói như vậy. Nhưng tôi không loại trừ 50 % lí còn lại để đưa ra khả năng ngược lại, nghĩa là cực hình không nhất thiết phải là giết chết. Chính Nguyên Thắng đã kể ra một trường hợp: có một ông Lê Lai "đã lấy thân thay (Lê) Thái Tổ trong cơn nguy hiểm, gần chết mà sống lại". Ông này có chết đâu. Chúng ta sẽ trở lại chuyện mấy ông Lê Lai ở phần sau.

Năm 1427, Lê Lễ và Lê Xí cầm quân ra trận, bị quân Minh "bắt được đem về thành Đông Quan. Lễ không chịu khuất bị giết chết. Xí về sau nhân ban đêm mưa gió, dùng m(c)o đánh lừa kẻ canh giữ, thoát về được, vào ra mắt vua ở dinh Bồ Đề. Vua kêu lên rằng: "Sống lại" (Toàn thư, tr. 33).

Rất có thể Lê Xí cũng bị cực hình nhưng không bị giết chết.

Còn tôi, tôi dựa vào đâu để cho rằng Lê Lai không bị quân Minh giết? Tôi dựa vào lời... Nguyễn Trãi: "khác hẳn các hình phạt thường dùng". Ai kể cho Nguyễn Trãi biết điều này? Chắc chắn là tác giả của những hình phạt này phải giữ "bí mật quân sự". Khả năng do chính nạn nhân kể lại chiếm ít nhất cũng là 50 %. Ngày xưa cũng như ngày nay, thỉnh thoảng người ta lại được biết những "tội ác chưa từng thấy" do những nạn nhân sống sót kể lại.

Thông thường, sử sách xưa viết rõ các hình phạt mà nạn nhân phải chịu hoặc nói rõ bị đánh, bị phạt, bị hành hạ đến chết. Hơn ai hết, các ông con trời ngày xưa quan niệm rằng hạ nhục ai, hành hạ cho "chết đi sống lại" có khi còn độc ác hơn là giết chết.

Lê Lai bị xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng, không cho phép ta khẳng định là ông bị tử hình.

Tôi vẫn nghĩ rằng quân Minh dùng những cực hình, tôi diễn dịch theo ngôn ngữ ngày nay là "tra tấn dã man", để hành hạ Lê Lai, nhưng chúng không giết ông. Tôi còn cho rằng quân Minh muốn khai thác Lê Lai, giữ ông làm con tin. Và sau này Lê Lai đã kể lại những cực hình này. Biết đâu trong lúc kể, Lê Lai lại chả quá lời, nói ra những lời ngạo mạn?

Dĩ nhiên về điểm này, tôi rất đồng ý với Nguyên Thắng là "không thể tùy tiện mà diễn dịch ra sao cũng được".

b-Tình hình thành Tây Đô năm 1425

Tôi đưa ra giả thuyết Lê Lai được giải cứu khỏi thành Tây Đô năm 1425. Tôi dựa vào 3 đoạn viết của Nguyễn Trãi và Ngô Sĩ Liên.

Năm 1425, tháng 5, "Vua bèn chia hai nghìn tinh binh, hai thới voi, sai bọn cháu ngoại là Lê Lễ, Lê Sát, Lê Bị, Lê Triện, Lê Nhân Chú suốt ngày đi ra đánh úp thành Tây Đô. Giặc đóng cửa chống giữ. Quân ta đánh vỡ, bắt được đảng giặc rất nhiều, chém hơn năm trăm đầu. Phàm nhân dân ở gần thành giặc, mảy may không xâm phạm.

"Bấy giờ nhân dân (...) chưa đầy 3 ngàn, bộ ngũ sắp xong hết, liền vây thành Tây Đô." (Lam Sơn thực lục).

Năm 1425, tháng 5, "Bấy giờ quân giặc đến cứu thành Nghệ An, vua đoán là các thành Tây Đô đều ít quân, yếu sức, lại chọn lấy hai nghìn quân tinh nhuệ, và 2 con voi, sai bọn Lê Lễ, Lê Sát, Lê Nhân Chú và Lê Triện, Lê Bí đi gấp đường tắt đánh úp thành Tây Đô, chém được hơn 500 thủ cấp, bắt sống được rất nhiều. Người Minh đóng cửa thành chống giữ. Dân cư ngoài thành, bọn Lê Triệu đều phủ dụ được cả. Bấy giờ người Thanh Hóa tranh nhau đến cửa quân xin liều chết đánh giặc. Bèn vây lấy thành ( Toàn Thư ).

(...) Chu Kiệt bỏ cũi, Hoàng Thành phơi thây
Đất Nghệ An chiếm lại, Tây Đô thu nhanh về tay
Gạo nước đón rước
Người theo đầy đường...
                                        (Phú Núi Chí Linh)

Theo Lam Sơn thực lục, ta được biết rằng nghĩa quân suốt ngày đi ra đánh úp thành Tây Đô. Giặc Minh đóng cửa chống giữ. Nghĩa quân đánh vỡ. Chém và bắt được nhiều giặc. Sau đó vây thành.

Theo Toàn Thư thì nghĩa quân đi đường tắt đánh úp thành Tây Đô, giết và bắt sống được nhiều giặc Minh. Quân Minh đóng cửa thành chống giữ. Dân quân Lam Sơn bèn vây lấy thành.

Cũng theo Nguyễn Trãi thì đã có lúc "Tây Đô thu nhanh về tay".

Tôi dựa vào sự kiện "đánh úp thành Tây Đô", "đánh vỡ" và "thu nhanh về tay" để nghĩ rằng nghĩa quân đã đột nhập được vào bên trong thành Tây Đô và tôi đưa ra giả thuyết là Lê Lai được giải cứu trong dịp này.

Mục đích của Lê Lợi là đánh úp thành Tây Đô. Nghĩa quân đã đánh vỡ được. Sau đó (vì một lí do nào đó?) nghĩa quân rút lui khỏi thành. Nhân dân ngoài thành mới "gạo nước đón rước, người theo đầy đường". Lê Triện ra lệnh "phàm nhân dân gần thành giặc, mảy may không xâm phạm". Dân quân cũng vây thành.

Nguyên Thắng viết rằng "quân Minh bị đánh vỡ khi ấy là quân ngoài thành". Không thấy Nguyễn Trãi và Ngô Sĩ Liên nói điều này.

Hai chữ "đánh vỡ" của Nguyễn trãi có nghĩa gì? Nguyên Thắng trích dẫn một đoạn văn cũng của Nguyễn Trãi: năm Bính ngọ (1426), "Trong một thời gian ngắn, mấy thành (Điêu Diêu, Thị Cầu, Xương Giang, Khâu Ôn) đều vỡ. Chỉ có Đông Đô, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh là 4 thành chưa hạ được mà thôi". 4 thành bị "vỡ" ở đây là 4 thành bị nghĩa quân đột nhập, đánh thắng bắt hàng.

Cùng người viết (Nguyễn Trãi), cùng văn phong, cùng văn cảnh (đánh thành), chắc là chữ "vỡ" có cùng một nghĩa. Trong trận đánh úp thành Tây Đô, "giặc đóng cửa chống giữ. Quân ta đánh vỡ, bắt được đảng giặc rất nhiều, chém hơn năm trăm đầu." Tôi nghĩ rằng nghĩa quân đã có lúc đánh vỡ quân Minh phòng thủ thành Tây Đô, đã "thu nhanh về tay" và nhân dịp này đã giải cứu được Lê Lai.

Cần nói thêm tí xíu là tôi không hề viết, không hề "vội hiểu là thành Tây Đô bị hạ". Sử rành rành ra đó, đọc đi đọc lại cả chục lần (hoặc hơn), tôi chưa dám bạo gan đến cỡ cho nghĩa quân hạ thành Tây Đô năm 1425. Tôi viết "nghĩa quân Lam Sơn chiếm thu Nghệ An, Tây Đô năm 1425." Tôi thận trọng dùng lại chữ chiếm và chữ thu của Nguyễn Trãi.

Nguyên Thắng thuyết giảng khá dài về chiến lược vây thành của Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Đúng 100 %. Nhưng đó là chuyện xảy ra sau trận đánh úp thành Tây Đô.

Thứ tự các câu viết của Nguyễn Trãi thật là quan trọng. "Suốt ngày đi ra đánh úp thành Tây Đô. Giặc đóng cửa chống giữ. Quân ta đánh vỡ...". Nguyễn Trãi viết rất rõ, rõ hơn Ngô Sĩ Liên.

Hy vọng rằng tôi không hiểu sai Nguyễn Trãi, mà sai rất xa !

c-Có nhiều Lê Lai

Ông Lê Lai tôi nói tới trong bài là Lê Lai theo Lê Lợi từ ngày đầu và ông tư mã Lê Lai bị Lê Lợi giết năm 1427.

Sử ghi rằng sau khi lên ngôi vua (1428), Lê Lợi phong thưởng các công thần, ban họ vua, quốc tính cho một số người (trong đó có Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi v.v...).

Các ông Nguyễn Thận, Lê Văn An, Nguyễn Bá Lai, được ban họ Lê, được ban quốc tính, sớm nhất cũng là từ năm 1428 trở về sau. Như vậy thì 3 ông Lê Lai này không phải, không dính dáng gì tới 2 ông Lê Lai tôi nói tới. Trừ phi có sự nhầm lẫn của đời sau (chẳng hạn như năm 1427 nhầm thành 1437?).

Lê Lai người Dựng Tú tên thật là Lê Lai. Tư mã Lê Lai bị giết năm 1427 cũng có tên thật là Lê Lai (vì năm 1427 chưa có chuyện ban họ Lê). Nếu là 2 người khác nhau thì sự trùng tên thật là hi hữu.

Thêm một chi tiết khác. Năm 1427, "gia phong thị trung Tư Tề làm tư đồ, đại tư mã Lê Nhân Chú làm tư không, thiếu úy Lê Vấn, Lê Sát làm tư mã, thượng tướng Lê Bôi làm thiếu úy, và răn rằng: "Chức tước đã cao, khuya sớm chớ lười, không được lãng chí mà bỏ việc" ( Toàn Thư ).

Tư mã là một chức lớn. Ông Lê Lai bị giết có chức tư mã. Các nhà sử học thử tra tìm chức tước của 3 ông Lê Lai - Nguyễn Thận, Lê Văn An, Nguyễn Bá Lai, xem có tìm ra được điều gì bổ ích không?

Nguyên Thắng trách tôi "phải gượng ép ngữ nghĩa và bỏ rơi không kể đến nhiều tư liệu quan trọng thì mới dựng lên việc Lê Lai (...) không bị quân Minh giết hại". Tôi "phải moi bằng cớ, uốn dữ kiện chứng minh cho được là Lê Lai còn sống đến 1427".

Nguyên Thắng trách đúng... một phần. Đã mang thân Việt kiều, lại còn làm Việt kiều tỉnh lẻ, tôi có ít tư liệu lắm. Thua xa Việt kiều Paris, nhất là thua một trời một vực so với các vị ở trong nước có đầy đủ thư viện, sách báo, sử ta, sử tàu. Nhưng điểm yếu kém này vẫn không cho tôi "dựng" chuyện. Điểm yếu kém thứ nhì của tôi là tin Nguyễn Trãi và Ngô Sĩ Liên hơn các tác giả của mấy trăm năm về sau.

Tôi dựa vào 3 văn bản xưa nhất, nghĩa là ít sai lầm nhất, thử lần mò tìm hiểu một trang sử Việt Nam.

Cũng may cho tôi, mấy tư liệu Nguyên Thắng đưa ra về lai lịch 3 ông Lê Lai được phong quốc tính, họ vua, xem ra cũng không cần thiết cho cuộc thảo luận ở đây.

Suy đi nghĩ lại, tôi thấy vẫn còn lí do để bảo vệ "kịch bản" của mình.

Xin chấm dứt bằng câu mở đầu của Nguyên Thắng: "Nghề đọc sách cũng lắm công phu" !

Viết thêm cho bạn bè.

Tôi nghĩ đến các bạn học của tôi. Đám bạn học tiểu học ở Hà Nội, trung học ở Tân Định, Bà Chiểu, Sài Gòn. Chúng tôi được học sử qua cuốn sách được nha học chính, bộ giáo dục công nhận, cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Tôi còn nhớ chập chờn cả hình vẽ trong cuốn sách tập đọc lớp ba hay lớp nhì hồi đó: ông Lê Lai mặc áo bào bị hai tên Minh giữ hai tay, tên thứ ba cầm giáo đâm ông. Bài học mang tựa là "Lê Lai liều mình cứu chúa".

Rốt cuộc chỉ có Trần Trọng Kim là đứng một mình. Ông viết rằng Lê Lai bị quân Minh "bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô". Lê Lai bị giết tại chiến trường ! Như hình vẽ minh họa.

Như chúng ta được biết, Nguyễn Trãi không kể chuyện Lê Lai bị quân Minh giết, Ngô Sĩ Liên không kể chuyện Lê Lai bị bắt. Trần Trọng Kim kể đầy đủ. Tôi đoán là Trần Trọng Kim đã dựa vào bộ Khâm Định Việt sử Thông Giám Cương Mục (gọi tắt là Cương Mục) của nhà Nguyễn được khắc in năm 1884.

Dương Quảng Hàm, tác giả một cuốn sách khác cũng được bộ giáo dục công nhận (Việt Nam văn học sử yếu, 1941, NXB Xuân Thu (Hoa Kỳ) in lại), nhận xét về bộ sử của nhà Nguyễn như sau (tr 367):

"Cách chép: Bộ này chép theo phép biên niên và phép cương mục. Lại có những lời cẩn án là lời phê bình những điều đã chép ở sử cũ mà các nhà san định bộ cương mục cho là sai lầm (...).

Giá trị: Bộ này thu thập được nhiều tài liệu ở sử cũ và sách cũ để bổ những chỗ khuyết ở bộ Đại Việt sử ký. Nhưng một đôi khi cũng làm sai sự thực đã ghi ở sử cũ và vẫn theo phép biên niên khiến cho cách chép việc thành ra gián đoạn không được quán thông nhất trí ."

Tình cờ đọc Đại Việt sử ký mới giật mình, mới vội tra tìm trong Lam Sơn thực lục, văn thơ Nguyễn Trãi, hy vọng may ra có hiểu thêm được gì chăng?

Chắc chắn là có rất nhiều người đã đọc và biết "nghi án lịch sử tày đình" này. Ít ra là những người dịch Toàn thư và 2400 người may mắn có bản dịch trong tay (bộ Đại Việt sử ký toàn thư tôi có được in 2400 cuốn). Tôi chỉ là một trong số những người may mắn này, nhưng cũng phải hơn 10 năm sau mới tình cờ đọc được một câu nói về tư mã Lê Lai bị giết.

Tôi viết, hay gọi là "dựng lên kịch bản" cũng chả sao, trước hết để tặng đám bạn tôi, một lũ được học cùng một bài bản. Nếu có lặp lại những điều đã có người nói rồi thì tôi xin lỗi đã làm nhàm tai bạn đọc (biết rồi, khổ lắm, nói mãi). Nếu có ý nào mới (đúng hay sai) thì xin gọi là gợi ý hay góp ý. 

Nguyễn Dư 
12/5/98 
Nghe bàn chuyện Lê Lai, ...
Nguyên Đạo
Cũng như Nguyễn Dư, hồi nhỏ học sử, ai cũng biết "kịch bản chính thống" là Lê Lai liều mình cứu chúa, giặc bắt được giết đi.

Đùng một cái, tin được bắn ra "Có một Lê Lai mặc áo hoàng bào thế mạng Lê Lợi, bị quân Minh bắt; sau đó vài năm có một Lê Lai bị Lê Lợi giết vì ngạo mạn cậy công ". Người thấy lạ, kẻ bảo chẳng có gì đáng chú tâm, người xưa đã lý giải cả rồi. Muốn biết rõ, có lẽ chỉ còn trông mong vào những nhà nghiên cứu sử, bình tâm bàn bạc với nhau, xét dữ kiện, phê bình sách, nghiêm túc, khiêm tốn...

Nhưng muốn có thảo luận trước hết phải có người nêu vấn đề ! Phải chăng, xưa nay, những tiến bộ của khoa học, rất nhiều khi xuất phát từ những thái độ "xét lại lập trường chính thống" của xã hội? Tại sao mâu thuẫn trong chuyện Lê Lai, được viết trong sách từ mấy trăm năm nay, đến bây giờ mới được nêu ra?

Giá trị bài của Nguyễn Dư chính là dám đưa ra nghi vấn lịch sử này, cho mọi người góp ý.

Người đầu tiên đáp lời là Nguyên Thắng !

Trước lập luận của đôi bên, Nguyễn Dư và Nguyên Thắng, dốt sử như tôi, quả thực điên đầu.

1 - "Kịch bản chính thống"

Có một kịch bản: "Lê Lai bị người Minh bắt được, đem giết đi !".

Đây là "kịch bản chính thống", theo sách vở nhà trường. Điều đáng tiếc là những người viết ra kịch bản này, dĩ nhiên phải là những nhà thông thái, những sử gia nghiêm túc, biết "cân nhắc từng chữ", đã quên đi chuyện sau đó có một Lê Lai bị Lê Lợi giết.

Quên hay không biết ? Quả thật thông thái đến đâu, cẩn thận đến đâu đi nữa chắc cũng có chỗ sơ hở, đọc sách, luận bàn "chưa rốt ráo", "chưa tới nơi tới chốn".

a - Ông Ngô Sĩ Liên cắc cớ, nói Lê Lai bị giết mà không nói rõ Lê Lai nào, trong khi trong triều, theo "kịch bản Nguyên Thắng ", nhan nhản đầy quan đại thần tên Lê Lai, "đó là chỗ kém" của Ngô Sĩ Liên  (???!)

b - Ông Nguyễn Trãi, văn chương, mưu lược như thần, vậy mà chỉ nói Lê Lai bị "xử bằng cực hình khác hẳn các hình phạt thường dùng", sao không thêm câu "cho đến chết" ? Đã cân nhắc từng chữ, sao không nói toạc móng heo ra mà còn mập mờ: Lê Lai chết hay không chết? nói ra có gì đáng ngại?

b - Người sau viết sử, không biết có đọc sách của Ngô Sĩ Liên không, mà cứ lướt qua nghi vấn: Lê Lai bị giết một hay hai lần ?... như vậy có nghiêm túc không? Đúng hay sai, phải giải quyết chứ? Phan Huy chú đã không nói tới việc có một Lê Lai bị Lê Lợi giết, chắc có lẽ ông không biết chuyện đó, nên nghĩ rằng ông Lê Lai "liều mình cứu chúa" đã bị quân Minh giết.

Ngoài ra, ngôn từ xưa và nay chắc cũng có nhiều chữ đã đổi nghĩa. Ngày nay, chữ "bỏ mình vì nước" thông thường được hiểu là đã "chết vì nước", nhưng chữ "xả thân vì nước" không hoàn toàn cùng nghĩa. Vốn dốt chữ nho, tôi không biết chữ "bỏ mình" trong bài chế văn của Lê Thánh Tông (theo Nguyên Thắng) được viết nguyên văn bằng chữ Việt hay được dịch từ "chữ hán" nào? Và ngày xưa, phải được hiểu ra sao?

Như vậy "kịch bản chính thống" quả có nhiều sơ hở, vì nó không lý giải rõ ràng dữ kiện "có một Lê Lai bị Lê Lợi giết"! Lẽ ra đâu đó cũng phải nói, dù cho khẳng định: "Có một Lê Lai bị Lê Lợi giết, nhưng người đó không phải là kẻ đã cứu sống Lê Lợi" !

2 - Một hay nhiều Lê Lai? Bàn luận về sử phải chăng không cần xét đến giá trị các tài liệu có trong tay?

Với tất cả những nghi vấn đó, "kịch bản Nguyễn Dư": một Lê Lai bị bắt nhưng không bị Minh giết, dù giải thích chưa được thỏa đáng, theo ý tôi vẫn là ít gượng ép nhất, ít vặn vẹo nhất, so với kịch bản: "cho xuất hiện cùng một thời gian dăm quan đại thần Lê Lai khác". Rất có thể, cùng thời đó, có nhiều người trùng tên Lê Lai. Nhưng khó tưởng tượng nổi trong một triều đình có ba bốn quan đại thần, cùng mang một tên, cùng có công trạng lớn đến mức độ được mang quốc tính, dám ngạo mạn với vua, công trạng đó lại không được nhắc nhở trong sử sách. Trong các trận đánh, lớn nhỏ, sao không thấy nói đến tên Lê Lai? Ngoài công "liều mình cứu chúa", có Lê Lai nào còn công trạng khác?

Còn gì bình thường hơn khi ta hiểu rằng: Lê Lai trước, chịu hy sinh thế mạng cho Lê Lợi, với Lê Lai sau, bị Lê Lợi giết, chỉ là một Lê Lai? Cùng một tác phẩm ! cùng một tác giả ! Tại sao tác giả không nói là hai, mà mình cứ quả quyết là hai ? Nói ngược lại là không bình thường. Dĩ nhiên ta có quyền nói ngược Ngô Sĩ Liên, nhưng phải chưng bằng cớ ! Một bên là sử sách giấy trắng mực đen: "Giết tư mã Lê Lai, tịch thu gia sản, vì Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn nên bị giết" , một bên là phân tách ngữ nghĩa : sách đời sau nói Lê Lai "bỏ mình" hay "xả thân", và "bỏ mình" có nghĩa là đã chết.

Nhiều tài liệu được Nguyên Thắng nhắc tới, dẫn chứng sự hiện diện của nhiều Lê Lai, nhưng chưa thấy luận bàn xem những tài liệu đó đáng tin cậy đến mức độ nào? Nhất là những tài liệu được viết rất lâu về sau, có cả một bản tục biên được sao lại năm 1942... Hiện tượng "tam sao thất bổn" hay "râu ông nọ cắm cằm bà kia" có thể xẩy ra? Con cháu chép chuyện ông Tổ mình trong gia phả, hay đúc bia (vào giữa thế kỷ thứ 19 ! ) liệu có thể thêm bớt hoa hoè gì không? Thời xưa, có hay không chuyện thay tên đổi họ, hay thay đổi năm sinh, năm chết, nhất là khi ông tổ mắc tội với triều đình, hay mắc tội chết chém (vì dám ngạo mạn!)

Với Lô Gích của Nguyên Thắng, dù không nói ra, hễ đã viết ra văn bản là đúng ! Này nhé, theo sách Ngô Sĩ Liên, đã có 2 Lê Lai, một "cứu mạng vua", một bị Lê Lợi giết). Năm 1942, có một bản sao của Lam Sơn Thực Lục tục biên, ghi có người tên Nguyễn Thận ở Mục Sơn, được ban tên là Lê Lai, vậy là ba Lê Lai. Sau đó, có bia tìm thấy ở Mục Sơn (cũng lại Mục Sơn!), có người húy là Lai được mang quốc tính vì "đem thân cứu chúa" (cũng lại "liều mình cứu chúa")... vậy là bốn Lê Lai...  Có chuyện ông Lê Lai - Lê Văn An liều mình cứu chúa nhưng không bị Minh giết ! lại chết năm 1437... , "lấy thân thay Thái Tổ" (nhưng thay làm sao? có bị quân Minh bắt không? nếu có, làm sao thoát về được để sống cho đến năm 1437? Đúng là "kịch bản Nguyễn Dư" nhé !). Còn kịch bản "Lê Lợi bị "gặp nguy hai lần", được "hai ông Lê Lai" khác nhau "lấy thân thế mạng", Nguyên Thắng có cho  là gượng ép không?  Dù có thể có nhiều người tên "Lai ".

Cùng thời với Lê Lợi và Lê Lai, Nguyễn Trãi không nói rõ là Lê Lai bị quân Minh giết. Thời sau, triều thần nhà Lê mới nói là Lê Lai bị quân Minh giết. Có ai nhớ câu chuyện "Thị Lộ và rắn báo oán " không nhỉ ? Phải chăng vì những chuyện "bóp méo lịch sử " thời Lê để giữ thể diện cho "Triều Đình sùng Nho giáo" này mà nảy sinh những chuyện "tiền hậu bất  nhất "  trong sách sử như chuyện Lê Lai ?

3 - Có thể nào đặt giả thuyết một cuộc giải cứu Lê Lai tại trận Tây Đô hay sau đó?

Khi tài liệu sử đã không rõ ràng, dĩ nhiên chỉ có cách bàn luận xét đoán thực hư, đưa ra giả thuyết này nọ. Và đã bàn luận thế nào chẳng phải dựng lên kịch bản, lớp lang, chuyện trước chuyện sau? Dù nói ra hay không, trong mỗi bài viết đều tiềm ẩn "một kịch bản".

"Kịch bản Nguyễn Dư" có ba điểm: 1-Lê Lai cứu chúa bị bắt. /2-Lê Lai thoát ngục trở về./3-Lê Lai bị Lê Lợi giết.

"Kịch bản Nguyên Thắng" quả quyết: 1- Lê Lai cứu chúa bị bắt./2-Lê Lai không thoát ngục được, bị quân Minh giết./3-Có nhiều Lê Lai, một trong những Lê Lai đó bị Lê Lợi giết sau này.

Điểm thứ nhất đôi bên cùng đồng ý. Điểm thứ ba chỉ là hệ luận của điểm thứ hai.

Điểm thứ hai được đặt ra: Lê Lai có bị quân Minh giết hay không?

Nếu không, bằng cách nào thoát ngục trở về? Lê Lai được giải thoát trong trận đánh úp Tây Đô, hay sau này, sau trận Tây Đô, trong điều kiện khác? Thực ra, được giải thoát trong trận Tây Đô hay không, tự nó, dữ kiện này cũng không quan trọng. Điều chính là Lê Lai có còn sống đến năm 1427 hay không?

Trở lại giả thuyết Lê Lai được giải cứu trong trận Tây Đô. Một số câu hỏi lẩn thẩn có thể được đặt ra : Tây Đô được chiếm toàn bộ hay không trong một thời gian ngắn ? Lê Lai bị giam chỗ nào? Quân ta tấn công đến đâu? Có thể nào tưởng tượng có người giải cứu tù nhân để lập công trong lúc hỗn loạn?

(...)Chu Kiệt bỏ cũi, Hoàng Thành phơi thây
Đất Nghệ An chiếm lại, Tây Đô thu nhanh về tay
Gạo nước đón rước
Người theo đầy đường...
                        (Phú Núi Chí Linh)

Nếu không coi bài này là tài liệu lịch sử chính xác, ít nhất nó cũng nói lên khí thế trận Tây Đô.

Dĩ nhiên, nói chuyện "vượt ngục", "giải cứu tù nhân", có người sẽ cười nói là "chuyện tiểu thuyểt !

Lấy chuyện khác để so sánh: Lê Xí bị Minh bắt, "nhân ban đêm mưa gió, dùng mẹo đánh lừa kẻ canh giữ, thoát về được, vào ra mắt vua ở dinh Bồ Đề". Đấy ! Không cần ngoại công nội ứng, chỉ một đêm mưa gió mà vượt ngục được.

Thế lúc quân ta tràn vào (đến đâu, chưa biết), trống trận ầm ầm, thành lũy tan vỡ, quân Minh nhốn nháo, tứ phía bủa vây, 500 lính Minh bị giết, bao nhiêu lính bị bắt, không biết có thể tưởng tượng một cuộc giải thoát tù trong điều kiện này không nhỉ?

Hay là Lê Lai được giải cứu sau này, trong điều kiện khác? Dĩ nhiên, kịch bản "Lê Lai được giải cứu" có nghĩa là trước sau, ít ra cho đến năm 1427, chỉ có một Lê Lai cứu Lê Lợi sau bị Lê Lợi giết.

Còn nếu tin theo Nguyên Thắng: Lê Lai không hề được giải cứu, đã bị Minh giết, thì chỉ còn cách dựa vào sách vở, ngôn từ, phân tách ngữ nghĩa, trưng bằng cớ, chứng minh có nhiều Lê Lai được ban quốc tính, chung sống cạnh Lê Lợi trước năm 1427.
Như vậy cứ chứng minh là có nhiều Lê Lai vây quanh Lê Lợi, và tưởng tượng Lê Lợi ra lệnh: " Lê Lai 1 cưỡi voi ra thế mạng ta, Lê Lai 2 theo ta hộ giá, Lê Lai 3 đem quân ra đối đầu giặc...".

Nghe những người trong "nghề đọc sách" luận bàn không hẳn là dễ, cũng lắm công phu đấy chứ nhỉ !...
 

Nguyên Đạo 


[ Trở Về ]