Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về   ]           [Trang chủ ]
 
Đi tìm (cái ) tôi

Nguyễn Phú Phong


1. Tôi, tôitôi

Trong bài biên khảo này, tôi khái niệm về bản ngã thường thể hiện qua danh từ (cái) tôi trong tiếng Việt. Tôi 'bản ngã' - xin ghi là tôi 3 - có thể được xem là xuất phát từ tôi ' đại từ chỉ ngôi 1, số ít ' (tôi 2); tôi 2 lại phái sinh từ danh từ tôi 'đày tớ, tôi đòi' (tôi 1). Thứ tự phái sinh của các khái niệm tôi : tôi 1 > tôi 2 > tôi 3 có thể kiểm nhận được qua sự có mặt sớm muộn/trước sau theo thời gian của các từ tôi trong các văn bản.

Trước thế kỷ 17, không có tài liệu văn xuôi nào súc tích viết bằng tiếng Việt ; lý do này khiến chúng tôi dùng các thi tập để nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt ở thời kỳ này. Trong 254 bài thơ trong Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi thế kỷ 15, cũng như suốt 100 bài trong Bạch Vân Am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm thế kỷ 16, không hề thấy tôi được dùng như tôi 2, và như thế lại càng tìm không ra chữ tôi hiểu theo nghĩa tôi 3. Ở các tác giả trước thế kỷ 17, khái niệm 'đại từ chỉ ngôi 1' mà người phát ngôn dùng để tự chỉ chính mình, được thể hiện với từ ta ; ta xuất hiện 36 lần trong Quốc Âm của Nguyễn Trãi, và 27 lần trong Bạch Vân Am của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ tao chắc chắn đã có trong tiếng Việt nhưng không được dùng trong văn học viết. Từ tôi có xuất hiện sáu lần trong Quốc Âm nhưng với nghĩa tôi 1 'tôi đòi'.

2. Tatôi

Ta nằm trong hệ thống các chỉ thị từ (déictique) gồm có đại danh từ chỉ ngôi (pronom personnel)chỉ định từ (démonstratif). Ta là một đại từ chỉ ngôi chính thực, không đồng nghĩa với tôi 2 trên mặt sở chỉ (référent), nghĩa là nếu tôi 2 [đại từ ngôi 1, số ít ] chỉ đến người nói và chỉ một người này thôi, thì ta [đại từ ngôi 1, số nhiều ] có thể bao gộp cả người nói [ngôi 1] và người nghe [ngôi 2]. Ví dụ (1) và (2) sau đây chứng minh sự khác biệt ở trên :

(1) Tao với mầy, ta cùng làm (Ta gồm tao [ngôi 1] và mầy [ngôi 2])
(2)*Tao với mầy, tôi cùng làm (Câu này sai ngữ pháp vì tôi không thể gồm cả taomầy)

3. Ngồi, ngôi ngôi

Để khu biệt hai đại từ taomầy, chúng ta phải nắm vững khái niệm ngữ pháp thể hiện bằng từ ngôi. Ngôi xét về từ nguyên là xuất phát từ động từ ngồi , và có nghĩa là 'nơi ngồi', có khi dùng để chỉ ngai (vua), lại có lúc dùng như loại từ như trong ngôi nhà, ngôi sao, v.v. Có từ điển giải thích rằng ngôichỗ ngồi của người có chức vị và trong nhiều từ diển ngôi còn có nghĩa là địa vị, chức vị. Như vậy từ một 'chỗ ngồi trong không gian', ngôi còn có thể là biểu trưng cho 'chỗ ngồi theo một thang cấp bậc, địa vị nào đó'.

Từ ngôi dùng trong tiếng Việt để chỉ một phạm trù ngữ pháp (từ đây viết là ngôi* ) xuất hiện rất muộn. Theo sưu tầm của chúng tôi, ngôi* được dùng lần đầu trong cuốn Văn phạm Việt Nam của Trần Trọng Kim (có Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm cộng tác), in lần thứ nhất năm 1941. Cuốn Từ điển tiếng Việt (Văn Tân, 1967) là cuốn từ điển đầu tiên đưa ngôi* vào để giải thích như ở mục từ : Ngôi thứ nhất : danh từ ngữ pháp chỉ người nói. Nhưng danh từ ngữ pháp là gì, định nghĩa ngôi* như vậy thật quá khó hiểu.

Khái niệm ngôi* bắt nguồn từ persona tiếng Latinh mà A. de Rhodes dùng để diễn nghĩa các đại từ tôi, tao, mày, ... (xem Brevis Declaratio, Chương IV, De pronominibus). Persona ban sơ có nghĩa là 'mặt nạ sân khấu (masque de théâtre)' mà diễn viên mang vào, rồi sau đó chỉ nhân vật mà diễn viên đó đóng. Vì văn phạm/ngữ pháp tiếng Việt ở buổi sơ khai được dựng nên dựa theo mẫu văn phạm/ngữ pháp tiếng Pháp nên ngôi* dùng để định nghĩa đại từ chỉ ngôi dịch từ chữ personne tiếng Pháp ra, chỉ đến vị thế/vai trò của các thành viên trong cuộc hội đàm (interlocution) : ngôi 1 chỉ vị thế/vai trò chính yếu nhất trong hội đàm, tức vị thế/vai trò người nói ; thứ đến là ngôi 2 chỉ vị thế/vai trò người nghe ; sau cùng ngôi 3 chỉ vị thế/vai trò nằm ngoài ngôi 1 và ngôi 2, tức nằm ngoài hai ngôi đối thoại. Ngôi* personne hiểu như thế thì không dính dáng đến thứ bậc tôn ti trong xã hội của các đối tác trong hội đàm. Nhưng trước khi ngôi đạt đến cái khái niệm ngôi thuần ngữ pháp qua cách dịch chữ personne trong văn phạm Pháp thì khái niệm ngôi qua chữ persona Latinh đã có mặt trong văn phạm tiếng Việt với nghĩa ngôi vị, thứ bậc. Mở đầu chương IV "Về các đại từ" (Brevis Declaratio, De pronominibus), de Rhodes đã chẳng viết :" Tuỳ địa vị khác nhau và tuỳ sự khác biệt của người ta với nhau mà có rất nhiều đại từ nguyên thuỷ (primituorium pronominum) ". Từ ngôi với cả hai nghĩa ở trên đã được dùng một cách không phân biệt trong cuốn Việt-Nam Văn Phạm của Trần Trọng Kim. Đúng vậy, các tác giả cuốn Văn Phạm đã viết (tr. 61) :

Người ta chia nhân-vật đại danh tự ra làm ba ngôi :

1. Ngôi thứ nhất dùng để khi nói, mình tự xưng mình...

2. Ngôi thứ nhì dùng để chỉ người nói với mình...

3. Ngôi thứ ba dùng để chỉ người mình nói

Cái định nghĩa chữ ngôi* như vậy là dịch sát theo định nghĩa chữ personne trong các sách văn phạm cổ điển Pháp và tả đúng một phạm trù ngữ pháp diễn đạt vị thế, vai trò đối tác của các thành viên trong một cuộc hội thoại đối với hành vi phát ngôn và không dính dáng gì đến chức vị, thứ bậc xã hội khinh trọng của các thành viên này. Nhưng thay vì dùng đại từ chỉ ngôi* để dịch pronom personnel thì Văn Phạm lại dùng nhân vật đại danh từnhân vật thường được hiểu là " người có tiếng tăm, có địa vị hoặc vai trò quan trọng." Hoá ra ngôi/personne khi thì được dùng như một khái niệm ngữ pháp chỉ đến vai trò đối tác, khi thì được dùng như ngôi vị, thứ bậc, hoặc cả hai. Cái đa nghĩa của ngôi làm cho việc định nghĩa đại danh từ chỉ ngôi ở nhiều tác giả văn phạm Việt Nam thêm lúng túng, không rõ ràng. Nhưng việc dùng chữ ngôi để dịch chữ personne tiếng Pháp thì không những là tài mà còn sáng tạo nữa : hai chữ ngôipersonne đều đa nghĩa và có thể dùng để diễn tả những khái niệm khác nhau (ngữ pháp và thứ bậc) như nhau.

Thật ra thì de Rhodes cũng đã dùng từ ngôi để dịch chữ persona Latinh ; xem Cathechismvs, Saigon, 1961, tr.97 : non tamen sunt tres Dii, sed tres personae...[song le chẳng phải ba đức Chúa trời, thật là ba ngôi...]. Ngôi ở đây rõ ràng là 'ngôi tôn giáo' nhưng sau này với sự ra đời của văn phạm tiếng Việt theo mẫu văn phạm tiếng Pháp, ngôi sẽ nạp thêm một nghĩa khác là 'ngôi ngữ pháp'.

4. Tôi trong A. de Rhodes (1651)

Cái nghĩa nước đôi của tôi khiến A. de Rhodes trong tập Brevis Declaratio, phụ lục cho cuốn Dictionarium (1651) đã phải bàn luận khá chi tiết về việc sử dụng từ tôi như một đại từ chỉ ngôi. De Rhodes ở chương De Pronominibus nêu rõ trường hợp khi một người bề trên nói với kẻ dưới thì dùng từ tao để tự xưng, còn từ chỉ ngôi 2 là mày. De Rhodes nhận xét rằng thời đó người chồng tự xưng mình là tao, gọi vợ bằng mày mà không có sự nhục mạ nào. Ngược lại người vợ phải dùng tôi 'ancilla (nữ tỳ)' để tự chỉ mình khi nói chuyện với chồng. Vì phải để tâm đến cái nghĩa từ vựng 'nữ tỳ' còn đậm nét của đại từ tôi nên de Rhodes đã xét đến cách dùng tôi trong hai trường hợp tế nhị : vua nước Đông Kinh (tức là vua Lê hay chúa Trịnh) dùng từ gì để tự chỉ mình khi hầu chuyện với mẹ vua ; và Đức Mẹ Đồng Trinh (Virginem Matrem) có thể dùng từ gì để tự xưng mình khi đối thoại với người Con nhưng đồng thời cũng là Đức Chúa trời (Filio Deo). Trong cả hai trường hợp này, de Rhodes cho rằng tôi đều sử dụng được.

Vì sao de Rhodes phải đắn đo nhiều về việc dùng từ tôi như một đại từ như thế ? Ắt là vì tôi lúc bấy giờ chưa ngữ pháp hoá mạnh, còn lưu lại cái nghĩa từ vựng tôi đòi đậm nét. Lý do này khiến chúng tôi nghĩ rằng sự ngữ pháp hoá danh từ tôi 'tôi đòi' để biến tôi thành đại từ chỉ ngôi 1 với ý 'khiêm nhường' có thể mới tiến hành ở thế kỷ 17.

Qua suy nghĩ của de Rhodes về cách dùng đúng và tế nhị của đại từ tôi, chúng ta có thể kết luận rằng từ tôi đã đưa vào hệ đại từ chỉ ngôi một kích thước đặc biệt, không chỉ hiểu theo nghĩa vai trò đối tác (participant-role, tức là ngôi 1-người nói) và số lượng (number) - ở đây là số ít - như tao đã được định nghĩa, mà còn theo một thông số có tính cách cấp bậc địa vị. Vì vậy đặc tính của đại từ tôi không những là ngôi 1, số ít, mà còn mang thêm sắc thái khiêm nhường nữa. Cái khác biệt rất rõ giữa tao tôi là đối diện với tao, ngôi thứ 2 chỉ là mày thôi, còn đối diện với tôi thì ngôi 2 có thể thể hiện dưới hình thức hàng loạt danh từ, gần như hầu hết các danh từ chỉ quan hệ thân thuộc họ hàng, những từ chỉ quan hệ đẳng cấp hoặc những từ chỉ nghề nghiệp thuộc loại tương tự.

Vì nghĩa từ vựng gốc của tôi là 'tôi đòi' thuộc ngữ nghĩa có tính chỉ đẳng cấp xã hội nên tất cả những từ quan hệ họ hàng bây giờ được dùng như 'đại từ ngôi 2' cặp đôi với tôi [ngôi 1, ít, khiêm nhường] đều có ngữ nghĩa bị thay đổi để diễn giải một vị trí hoặc đẳng cấp xã hội tương thích đối với tôi. Như vậy từ ông sẽ có nghĩa là 'bố của cha' nếu như cặp đôi với từ cháu, nhưng ông lại phải được hiểu là 'người đàn ông đã trưởng thành không thân với mình' (Từ điển tiếng Việt) nếu đi với tôi. Quả nhiên, quan hệ cú pháp và ngữ nghĩa giữa cặp đại từ Ngôi 1-Ngôi 2 rất là khắng khít và những danh từ chỉ quan hệ gia tộc khi dùng như đại từ chỉ ngôi thì ngữ nghĩa phải được giải thích đối ứng với tôi. Ngữ nghĩa theo kiểu này, chúng tôi gọi là ngữ nghĩa cặp đôi (sémantique de paire). Ngữ nghĩa cập đôi N1-N2 có thể khái quát để áp dụng vào việc nghiên cứu các từ đôi ghép, các từ kép láy, v.v.

Với việc ngữ pháp hoá tôi thành một đại từ 'ngôi 1, ít, khiêm nhường' thì bây giờ trong tiếng Việt chúng ta có tới hai hệ thống đại từ chỉ ngôi số ít, hệ tung V phản ánh phân biệt đẳng cấp xã hội và hệ hoành H không phản ánh sự phân biệt này. Hai hệ T và H được tóm tắt lại trong bảng 1 dưới đây :

Bảng 1. Đại từ chỉ ngôi số ít hệ H và T
 
Ngôi 1 Ngôi 2 Ngôi 3
Đại từ H tao mày
Đại từ T tôi (trống)

Hãy lưu ý rằng hệ T chỉ có một đại từ thành viên thực thụ duy nhất là tôi. Ô thuộc ngôi 2 hệ T còn bỏ trống. Để điền vào ô trống này và dùng với tư cách một đại từ ngôi 2 chỉ kẻ đối thoại trong một tình huống nào đó, chúng ta có thể sử dụng một danh từ với sự lựa chọn khá lớn và rộng rãi, nhưng thường là danh từ chỉ quan hệ họ hàng hay đẳng cấp. Vì tôi có thể đối diện với vô số danh từ/danh ngữ dùng trong chức năng đại từ chỉ ngôi 2, các từ ngữ này có thể chỉ đến người, hoặc vật, hay sự vật nên bây giờ từ tôi nạp thêm được cái khái niệm chỉ bản ngã (ego) đối diện với vạn vật, vũ trụ (tôi est le moi face à l'univers), khác xa với tao chỉ đối diện với mầy như ngôi 1 đối với ngôi 2 trong một hệ đại từ chỉ ngôi. Vì vậy để biểu đạt cái bản ngã/ego trong triết học, văn học, người ta nói đến cái tôi, chứ không dùng cái tao bao giờ.

Hãy lưu ý rằng các đại từ chỉ ngôi chính thực (như tao, tôi, mày, nó...) không phân biệt giới tính, nam hay nữ, còn danh từ dùng với chức năng đại từ chỉ ngôi có khả năng đưa đến sự phân biệt này (như ông đối với ). Vì rằng từ ở hệ T có tần số sử dụng cao hơn nhiều so với từ ở hệ H, và cũng vì số lượng khá lớn những danh từ có khả năng sử dụng nhất thời chỉ ngôi 2 ở hệ T, nên người ta có khuynh hướng cho rằng tiếng Việt không có một hệ đại từ chỉ ngôi chính hiệu. Hơn nữa rất ít người chịu phân biệt đâu là đại từ thực sự, đâu là danh từ sử dụng nhất thời ở tư cách đại từ chỉ ngôi. Về việc xác định và miêu tả hệ thống đại từ chỉ ngôi một cách đầy đủ, xem Nguyễn Phú Phong, 1995 : 183-202.

5. Bản ngã : ta hay tôi ?

Sự gia nhập của tôi vào hệ đại danh từ tiếng Việt đã đưa đến hậu quả là làm đảo lộn toàn bộ cả hệ thống này đến cái mức mà một tác giả như H.J. Pinnow (1965) đã nhận xét rằng : "... trong tiếng Việt đại từ ngôi 1, số ít chính gốc đã hoàn toàn biến mất, tôi được dùng thay thế có nghĩa là 'đầy tớ, tôi đòi'...". Hãy lưu ý rằng dưới dạng ngữ âm tôi thì tôi còn lưu giữ cái vết ngữ nghĩa gốc là tôi đòi nhưng dưới biến thể ngữ âm tui của tôi như trong các phương ngữ Bình Trị Thiên, Quảng Nam, v.v. thì tui phải được công nhận là một đại danh từ chính hiệu, ngôi 1, số ít, chứ không thể là một danh từ vì lí do rất dễ hiểu là trong tiếng Việt không có danh từ tui nào cả. Sự xuất hiện và phát triển của tôi như một đại từ chỉ ngôi còn đưa đến sự phái sinh ra từ (cái) tôi chỉ bản ngã. Trong bài "Đi thuyền", Thơ thơ, 1938, Xuân Diệu có hai câu sau đây :

Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sang tôi phút này

Rõ ràng tôi ở đây tức là cái tôi, danh từ dùng để chỉ bản ngã. Trong tiếng Việt không có sự phân biệt giữa " đại từ động từ " và " đại từ danh từ " như je đối với moi trong tiếng Pháp. Các đại từ chỉ ngôi tiếng Việt mang đặc tính của một danh từ hơn là một động từ (je trong tiếng Pháp luôn luôn phải đi đôi với một động từ). Còn sự khác biệt giữa tôi đại từtôi danh từ nằm trên mặt ngữ pháp : tôi đại từ là ở ngôi 1 ; còn tôi danh từ ở ngôi 3 nên vì thế có thể thêm cái vào danh từ tôi.

Có thể nói (cái) tôi là một khái niệm thời thượng thời Thơ thơ, trong trào lưu văn học muốn nâng cao cá nhân, tách cá nhân ra khỏi cộng đồng. Theo thiển ý, danh từ (cái) tôi dùng để dịch khái niệm 'bản ngã' có thể xuất hiện sớm hơn nhiều, vào đầu những năm 1920 với sự ra mắt của tiểu thuyết Tố Tâm. Tác giả là Hoàng Ngọc Phách và những thanh niên cùng trang lứa theo học các trường Pháp-Việt lúc bấy giờ, trong việc học tập thưởng thức văn học Pháp chắc đã từng gặp câu nói của Pascal " Le moi est haissable." và đã không khỏi kiếm cách chuyển qua tiếng Việt danh từ le moi. Đặc điểm của giai đoạn Tố Tâm là " cá nhân chủ nghĩa, cá nhân tự do, bất chấp luật lệ cổ điển... Cái " tôi " được đề cao triệt để." (Tuyển Tập Hoàng Ngọc Phách, tr.190).

Nhưng khái niệm (bản) ngã diễn đạt qua từ (cái) tôi được cảm nhận khác với từ (cái) ta như thế nào ? Trong Từ điển Phật học (Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách, 1999), không thấy có mục từ tôi hoặc ta, nhưng có mục từ ngã và theo Từ điển " ngã tức là cái ta ". Tuy vậy, ở mục vô ngã 無 我  các tác giả lại dùng cái tôi để dịch cái ngã. Chắc là đối với hai tác giả, không có gì khác biệt giữa cái tôicái ta. Theo nhận xét của chúng tôi thì trong văn học phật giáo, các vị sư thường dùng cái ta để chỉ bản ngã ; các tác giả cựu học cũng thường dùng ta để dịch ngã (xem các Từ điển Hán-Việt của Thiều Chửu và của Đào Duy Anh) khác với phái tân học thì hay dùng tôi. Chuyện này là đương nhiên vì ta đại từ ngôi 1 có trước đại từ tôi rất lâu.

Nhưng từ khi danh từ cái tôi xuất hiện, dùng cái tôi dịch bản ngã có lẽ chính xác hơn chăng? Từ ngã viết ra chữ Hán là mà chữ này giải nghĩa theo Hán ngữ là " đại danh từ ngôi 1, số ít", rất tương thích với từ tôi tiếng Việt cả về ngôi lẫn số, lại không hoàn toàn tương đồng với ta, vì ngôi của ta như đã nói ở mục 2 phía trên, là ngôi 1+2 và như thế số lượng của ta là số nhiều. Từ tương đương với ta trong Hán ngữ phải là ngã môn 我 們 .Như vậy (bản) ngã qua tôi là bản ngã đơn, cá thể, còn bản ngã qua ta là bản ngã kết, nếu không nói là tập thể.

Nếu dùng tiếng Pháp làm siêu ngôn ngữ thì cái tôi dịch thành le moi, còn cái ta phải dịch thành le nous. Khu biệt tôi/ta song song với moi/nous. Mà ego/(bản) ngã trong tiếng Pháp là le moi chứ chưa bao giờ là le nous. Tuy vậy phải công nhận là cũng như nous trong Pháp ngữ, từ ta có thể dùng để chỉ ngôi 1, số ít nhưng lại là một ngôi 1, số ít, để tự xưng một cách oai nghi, kẻ cả. Vì thế những bậc bề trên thường dùng ta tự xưng để nói với kẻ dưới. Nhưng khái niệm về bản ngã/ego trong triết học, văn học, tôn giáo, có gì là hàm ý cái nét oai nghi, kẻ cả ấy ?

6.Tôi trong các phương ngữ Mường

Còn trong tiếng Mường, một ngôn ngữ rất gần với tiếng Việt thì sao ? Trong công trình của mình về tiếng Mường, Nguyễn Văn Tài (1982) đã kê khai tôi như một đại từ khả thị 'ngôi 1, ít' trong 10 phương ngữ trên tổng số 30 phương ngữ mà tác giả đã quan sát, và tui một biến thể của tôi trong 4 phương ngữ. Phải nhìn nhận rằng với tôi thì chúng ta có một ví dụ ngữ pháp hóa rõ ràng của một danh từ tôithành một đại từ tôi, chứ với tui thì chúng ta lại gặp một trường hợp tạo từ mới.

Sự gia nhập của tôi/tui trong các phương ngữ kể trên chắc cũng đưa đến một hậu quả là làm gia tăng thập bội những từ dùng để chỉ ngôi 2. Chiều hướng đáng quan tâm là khái niệm ngôi (personne) như một phạm trù ngữ pháp càng ngày càng biến thành khái niệm ngôi như là phạm trù chỉ thị có tính xã hội (social deixis category).

Và có một điều có thể tiên đoán được là đại từ tôi trong tiếng Mường sẽ cho phái sinh danh từ tôi chỉ '(bản) ngã' như trong tiếng Việt.

7. Lời kết

Ở trên chúng tôi đã cố gắng trình bày những giai đoạn phát sinh các từ tôi, từ một danh từ với nghĩa là tôi tớ, qua đại danh từ tôi chỉ ngôi 1, số ít, khiêm nhường, đến danh từ (cái) tôi chỉ bản ngã. Kết toán là trong ba ngôn ngữ Trung Quốc, Pháp và Việt, danh từ chỉ bản ngã và đại danh từ ngôi 1 là một và như vậy hai khái niệm có quan hệ rất mật thiết với nhau.

Tưởng như vậy là có thể xếp lại một bài biên khảo khá đầy đủ về từ tôi thì tai chợt nghe văng vẳng tiếng hát của Lệ Thu :

Tôi ơi ! đừng tuyệt vọng

Đấy là đề một bài hát của Trịnh Công Sơn và cách dùng từ tôi của TCS thoạt tiên gây ngỡ ngàng không ít : TCS đã dùng một đại danh từ ngôi 1 trong chức năng một đại danh từ ngôi 2, để thông báo rằng người nói với người nghe cũng là một, và để nói lên lời tự nhủ. Nhưng đó là cách dùng từ trong thơ ca mà ngữ pháp và ngữ nghĩa uyển chuyển hơn, khác hơn, so với ngôn ngữ bình thường, để vươn tới việc diễn tả một cách nghệ thuật những hình tượng, những cảm xúc trong vũ trụ thi thơ.

Nguyễn Phú Phong
Thư mục
Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách (1999), Từ điển Phật học, Huế, Nhà xb Thuận Hoá.

De Rhodes, Alexandro (1651), Dictionarivm Annamiticvm Lvsitanvm, et Latinvm, Romỉ, Sacrỉ de Congregationis.

De Rhodes, Alexandro (1651), Lingvae Annamiticae sev Tvnchinensis brevis declaratio, Romỉ, Sacrỉ de Congregationis.

De Rhodes, Alexandro (1651), Cathechismvs, Saigon, Tinh Việt (Bản in lại năm 1961 có Tóm tắt Tiểu sử do Claude Larre và Phạm Đình Khiêm).

Létoublon, Françoise (1994), La personne et ses masques, Faits de Langues. La personne, n° 3/1994, 7-14, Presses Universitaires de France.

Nguyễn Huệ Chi (1989), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, Hà Nội, Nhà xb Văn Học.

Nguyễn Phú Phong (1995), Questions de linguistique vietnamienne. Les classificateurs et les déictiques, Paris, Presses de l'EFEO. Bản tiếng Việt (2002), Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt. Loại từ và chỉ thị từ, Hà Nội, Nhà xb Đại Học Quốc Gia.

Nguyễn Phú Phong (1996), Personal pronouns and pluralization in Vietnamese, Mon Khmer Studies 25: 7-14.

Nguyễn Văn Tài (1982), Ngữ âm tiếng Mường qua các phương ngôn. Luận án Phó tiến sĩ Ngôn ngữ học, Hà Nội, Ủy Ban Khoa Học Xã Hội, Viện Ngôn Ngữ Học.

Nguyễn Văn Tài (1988), Tiếng Mường Bi - Đôi nét độc đáo của tiếng Mường. Trong Nguyễn Từ Chi và ctv, Người Mường với văn hoá cổ truyền Mường Bi, tr. 172-190, Ủy ban Nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hà Sơn Bình.

Pinnow, H.J. (1965), Personal pronouns in the Austroasiatic languages : a historical study (translated by H.L. Shorto), Lingua 14: 3-42.

Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1952), Việt Nam văn-phạm, Saigon, Tân Việt (in lần thứ 8).



Trở Về   ]