Chùa tọa lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, trên một quả đồi cao khoảng 50m, xung quanh có nhiều cây cổ thụ. Chùa có tên chữ là Quảng Nghiêm Tưï , được lập từ đời Lý Cao Tông, niên hiệu Trinh Phù thứ 10 (1185). Đến đời Trần, có hòa thượng Bình An, quê ở Bối Khê tu ở đây được người đời gọi là Đức Thánh Bối. Chùa gọi là Trăm Gian vì có 100 gian theo cách tính 4 cột là một gian. Ở sân chùa có gác chuông hai tầng tám mái được dựng vào năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Hòa, đời Lê Hy Tông (1693), là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao.. Chùa còn giữ được nhiều di vật, đồ tế khí và tượng quý. Đây là ngôi chùa đẹp về mặt kiến
trúc và khung cảnh thiên nhiên, nên ca dao đã có câu:
Nhìn tấm ảnh chụp chùa và gác chuông thì khó mà tưởng tượng được rằng chùa Trăm Gian có nhiều gian và cột đến thế . Chúng ta hãy tạm rời chùa Trăm Gian, đi thăm một ngôi chùa khác, chùa Ninh Phúc ( tỉnh Hà Bắc ), và thử so sánh kiến trúc của hai chùa, để tạm rút ra một kết luận. Chùa Ninh Phúc thuộc làng Bút Tháp là " một ngôi cổ tự còn lại ở miền Bắc Việt Nam, đứng vào hàng quy mô dài lớn nhất hiện nay và nổi tiếng về những tác phẩm điêu khắc và kiến trúc (... ). Phần chính của chùa nằm trong một khuôn viên chữ nhật ngang 40m, dài 80m (...). Chín tòa chùa sắp hàng hai bên hành lang dài như hai dãy phố, cộng tất cả 112 gian "(2). Chăm chú đếm trên bức họa đồ của chùa thì thấy mỗi dãy hành lang có được 27 gian. Mỗi gian gồm " 4 cột ". Nhưng chỉ có cột đứng ở góc mới hoàn toàn là của một gian, các cột khác, tuỳ theo vị trí, được đếm nhiều lần. Nếu trừ ra hai dãy hành lang, tất cả phần còn lại của chùa Ninh Phúc, gồm 9 tòa chùa cộng với tam quan, gác chuông, bảo tháp, chỉ còn 58 gian. Chùa Trăm Gian có mấy toà ? Tấm ảnh chụp mặt trước của chùa chỉ cho thấy một tòa, với một hàng cột gồm 8 cái. Chùa Trăm Gian bé hơn chùa Ninh Phúc, chúng ta cứ giả thử là chùa được xây theo kiểu "nội công ngoại quốc ", tức là có hai tòa ngang và một tòa dọc. Chùa không có hành lang " dài như hai dãy phố ", thì làm thế nào để dựng được 100 gian trong 3 tòa ? Ngược lại, nếu chùa có 100 gian thật thì trong lòng chùa sẽ chi chít cột, giống như bàn đinh của thầy phù thuỷ. Không dễ gì tìm ra chỗ để đặt bàn thờ và đón tiếp khách thập phương đến lễ Phật ! Trăm gian chỉ có nghĩa là có nhiều gian thôi. Tiếng " trăm " ( tiếng hán việt là bách ) hay được dùng một cách khái quát để chỉ số nhiều. Trăm không phải là một số đếm chính xác. Trăm không có nghĩa là một trăm ( 100 ). Xưa kia, nhiều làng lập hội " bách nghệ " ( trăm nghề ). Những người làm cùng nghề ( thợ mộc, thợ nề ... ) tập họp thành hội, hàng năm tổ chức lễ thánh sư ( ông tổ của nghề ), ăn uống vui chơi. Ai ở trong hội gặp khó khăn, túng bấn thì hội sẽ giúp đỡ. Hội bách nghệ thật ra chỉ quy tụ vài nghề. Chưa nghe nói có làng nào chuyên làm quá hai, ba chục nghề khác nhau. Hàng năm nhiều làng quê miền Bắc mở hội, tổ chức nhiều trò chơi. Các trò chơi, tuy chỉ có độ mươi, mười lăm trò nhưng cũng được gọi là "bách hí " (trăm trò vui). Ngày nay ta có nhiều " trăm " và " bách " lắm. Ta có 3 trường đại học Bách khoa ( trăm môn ). Người Pháp khiêm tốn hơn, họ chỉ có trường Đa khoa (Polytechnique ) thôi. Tại các thành phố lớn, những lúc nhàn tản, người ta đi bách bộ ( trăm bước ), ngắm nhìn các cửa hàng bách hoá ( trăm món hàng ). Nếu kể hết các mặt hàng lặt vặt, từ cái kim, cuộn chỉ, cục phấn, thì đôi khi cũng lên đến 100 thật đấy. Những hôm trời nóng bức ai chả thích đi dạo vườn bách thú (trăm giống thú vật ), bách thảo ( trăm thứ cây ), hay vào công viên ngắm " trăm hoa đua nở " để quên đi " trăm cay nghìn đắng " của cuộc sống hàng ngày. Tục ngữ, thành ngữ cũng thích dùng chữ
" trăm " :
Còn một con số khác cũng thường gặp trong văn học là số ba mươi sáu ( 36 ). Một con số thật chính xác nhưng nghĩa thì lại mù mờ! Nổi tiếng nhất là " Hà Nội băm sáu
phố phường ". Nhiều người trong chúng ta đã được đọc
tập bút ký nổi tiếng của Thạch Lam, viết năm 1943, mang
tựa đề này. Trước Thạch Lam đã có bài thơ nói về phố
phường Hà Nội như sau (3) :
Chỉ cần đọc câu ca dao:
Trong công trình nghiên cứu lịch sử của " Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội ", cụ Hoàng Đạo Thúy đã đưa ra một loạt tên của 63 phố (4). Có thể vẫn chưa đủ vì danh sách của cụ còn thiếu phố Trường Thi (nơi tổ chức các kỳ thi ) và phố Trường Tiền ( nơi có sở đúc tiền ngày xưa ). Như vậy, có thể nói rằng thành phố Hà Nội cổ phải có từ 65 phố trở lên. Nhưng tại sao lại nói là " Hà Nội băm sáu phố phường " ? Con số 36 mang ý nghĩa gì ? Đào Duy Anh nhận xét rằng ba mươi sáu là " số nhiều hữu hạn chỉ toàn bộ " (5). Theo Hoàng Xuân Hãn thì " số ba mươi sáu là một phương-số mà người Á Âu đều coi là có đặc tính huyền bí " (6). Có thể vì vậy mà tác giả của bài thơ đã cố ý chỉ kể tên 36 phố, để làm tăng vẻ đẹp, nét thơ mộng của thành phố Hà Nội năm xưa ? Chúng ta còn gặp con số 36 ở nhiều chỗ
khác.
Vẩn
vơ trong áng phồn hoa
Toàn bộ cõi tiên ở trên núi gồm ba mươi sáu động. Núi nào, ở đâu, không ai biết được. Trong một tình huống khác, nàng Kiều cũng
gặp con số vu vơ này:
Bát Giới học được 36 phép biến hóa.
Nhưng Tề Thiên còn giỏi gấp đôi Bát Giới, học được
72 ( hai lần 36) phép thần thông ( Tây du kí ). Cả hai vị đều
chưa thi thố hết tài năng nên chúng ta đành chịu, ngồi chờ
các đòn phép mới lạ khác.
Dân ca quan họ Bắc Ninh có bài " Ba mươi
sáu thứ chim ":
Làng Đồng Kỵ, tỉnh Hà Bắc, hàng năm mở hội từ mùng 4 tới mùng 6 tháng giêng. Ngoài những trò chơi, thi đốt pháo, hội làng còn có rước hình sinh thực khí từ đền về đình. Hai lễ vật tượng hình sinh thực khí của đàn ông và đàn bà được làm bằng gỗ ( gọi là nõn ) và mo cau ( gọi là nường ). Đám rước tới trước sân đình thì cử hành "vũ điệu âm dương", lồng hai vật vào nhau ba lần. Lễ xong thì tung hai sinh thực khí lên trời cho dân làng tranh nhau chụp bắt. Tục lệ này đã gợi ý cho câu ca dao rất
trần tục:
Chùa Trăm Gian không chắc có tới 100 gian và Hà Nội ngày xưa có nhiều hơn " băm sáu phố phường ". (1) Võ Văn Tường, Việt Nam danh lam cổ tự, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1993, trang 90 và 396 . (2) Nguyễn Bá Lăng: Chùa xưa tích cuõ, NXB Lá Bối, San Jose ( Hoa Kỳ), 1988, trang 147-173. (3) Vũ Ngọc Phan: Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1978, trang 186. (4) Hoàng Đạo Thúy: Thăng Long, Đông đô, Hà Nội, NXB Hội Văn Nghệ Hà Nội, 1971, trang 56. (5) Đào Duy Anh: Từ điển truyện Kiều, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1989. (6) Hoàng Xuân Hãn: Bích Câu kì ngộ, NXB Đại Học, Huế, 1964. |
|