Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]             [  Tác giả ]

 
ĐÂU RỒI QUÁN DỐC CÂY ĐA

Thu Tứ

Lục bát như nói
Từng say gỗ đá
Ao cạn, cá ngáp
Cũ còn, cũ mất
Còn chút của tin

Lục bát như nói

Cái năm sau ấy có về Y.P. hỏi thăm anh C., mà không gặp. Hàng xóm bảo anh đã chuyển công tác lên Bắc Giang.

Muốn gặp lại một phần vì đôi bài thơ được anh chép tặng. Thơ "trèo lên quán dốc":

"Đây rồi quán dốc cây đa
Mà cô mặc áo vỏ dà nay đâu
Mưa xuân gội đẫm mái đầu
Đi tìm người hát qua cầu gió bay
Năm xưa vẫn ở chốn này
Nhờ ai đan nón chơi ngày hội xuân
Còn đây chiếc nón ba tầm
Biết trao ai đội chơi rằm tháng giêng
Chiều tàn nắng gợi nhớ thương
Hội tan về vẫn vấn vương tơ sầu
Hỏi xuân liền chị xưa đâu
Để cho nón tủi để sầu lòng ai
Ngày xuân thì vẫn còn dài
Hội xuân chỉ một hôm nay tan rồi
Hát câu giã bạn người ơi
Buồn trông lẻ bóng chim trời xa xa
Đây rồi quán dốc cây đa
Mà cô mặc áo vỏ dà nay đâu."
Thơ làm tự nhiên như nói, nhắc Nguyễn Bính. Giá gặp lại được nhau, đã rủ anh C. đi thăm tác giả (2), rồi có lẽ cùng kéo nhau đi xem hát.

Từng say gỗ đá

Theo Hoàng Cầm, "quan họ (...) là nghệ thuật hát thơ, những câu thơ (cốt lõi là thể lục bát) trữ tình (...) đến mức có thể làm say cả gỗ đá".(3)

Tình vốn nhiều loại, nhưng được "trữ" trong những câu thơ các liền anh liền chị ưa "í a" dĩ nhiên là loại tình yêu lãng mạn của trai gái lứa đôi. Thơ "Người ơi người ở đừng về" mà được hát lên lối con gái Bắc Ninh thì đố trai tỉnh nào dứt... ô ra về cho được. Khối anh cứ nghe những "í a", "í ơ", "ì a", "ối a", "hừ la", "ấy mấy", "tình tang" là say tít, vừa "giã bạn" bên đám này xong đã cắp ô xuống ngay đò qua sông mà nghe đám khác "mời nước mời giầu"!

Nghe hát thơ tình say đắm thế, mà lại không phải gỗ đá, thì có muốn yêu cũng là thường chứ. Yêu ai, nếu chính liền chị đã có thanh lại có sắc, thì ai nữa. Cho nên mới từng lẵng nhẵng "bướm lượn hoa thơm" để nghe cho mòn tai cái giọng trong trẻo, vang như chuông, và ngắm cho mòn mắt cái dáng thanh thanh, cái mặt đẹp tươi tắn mà oai như... cô tướng kia! Nàng "ngồi tựa song đào" ới ơ "hỏi người tri kỷ" thì vấn vương quá đi chứ, tình ơi. Còn "giữa tối đêm rằm", giữa "cái sáng giăng xuông" mà "nửa đêm về sáng" cô mình lại kẽo cà kẽo kẹt "a la hự hới hư, a la hự hời hư..." thì đến "cỏ cây cũng muốn hư hự hự hư"(4) cho trọn một bề, nữa là!

"Nay có thương nên tôi phải đi tìm

Mai có nhớ tôi lại sang chơi...

Í a...".(5)

Hoa thơm đã có người đánh vào chậu nên thương là thương thầm, nhớ là nhớ trộm thôi.

Thế mà thoắt đã...

Thời gian.

Ao cạn, cá ngáp

Nhớ Trần Văn Khê. Không phải vì quan họ, mà vì tấm lòng đặc biệt thiết tha với đất nước của nhà dân nhạc học. Do "thân (...) tại ngoại", hàng ngày ông cố nấu lấy món Việt mà ăn cho đảm bảo vĩnh viễn "hồn (sẽ) tại quê hương". Cố ăn món quê để khỏi quên quê, cái ý đơn giản mà thật cảm động. Không phải ai nói thế ta cũng dám tin đâu, nhưng Trần Văn Khê, căn cứ vào hàng nửa thế kỷ tận tụy cống hiến cho việc tìm hiểu dân nhạc, vào vô số ý kiến đã phát biểu, thái độ đã bày tỏ, ta có thể hoàn toàn tin.

Người Việt xa nước Việt ăn món Việt để nuôi lòng yêu nước. Còn người Việt sống ngay ở Hà Nội, Sài Gòn v.v. thì Trần Văn Khê khuyên nên treo hình ảnh nhạc sĩ Việt Nam xuất sắc trong các nhạc viện để trẻ đến học được chiêm ngưỡng tiền bối tài ba, qua đó phát triển lòng tự tôn dân tộc (vì dân tộc đã do thua kém Tây về vật chất mà đâm tự ti). Lại thật đơn giản và cảm động. Trộm nghĩ mai kia hậu thế có treo ảnh ai thì treo, nhưng đừng quên treo thêm luôn một bức chân dung của chính người đã khuyên treo ảnh!

Nấu, chan, húp canh chua cá bông lau, chẳng hạn, là chuyện hoàn toàn khả thi. Treo tranh ảnh các tiền bối có hơi rắc rối. Dân nhạc nói chung khuyết danh tác giả, hơn nữa ảnh đâu có mà treo (ngay tranh truyền thần cũng hiếm), chắc chỉ lồng kiếng đưa lên vách được mỗi cụ Cao Văn Lầu! Dĩ nhiên nhạc sĩ tân nhạc thì ta tha hồ chọn người xứng đáng mà đưa chân dung vào "hall of fame".

Lòng yêu nước đáng quý còn khiến Trần Văn Khê sôi nổi sáng kiến nhiều biện pháp cụ thể nhằm giúp phục hồi dân nhạc. Ông kêu gọi phổ biến điệu hát ru, dạy trẻ em làm quen với trống da ếch, kèn lá chuối, ống đu đủ, phách tre, dạy các em ngũ cung Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, khuyến khích nông dân vừa làm việc vừa hò đối đáp v.v.(6)

Không thể nào được đâu, cụ ơi. Không ai, kể cả cả một nhà nước cai trị hết sức chặt chẽ, có thể khiến dân sinh hoạt "lạc thời" được lâu đâu.

Dân nhạc truyền thống nó là sản phẩm của môi trường truyền thống. Môi trường cũ đẻ ra nó, nó vẫy vùng trong môi trường ấy không cần ai khuyến khích. Nhưng hễ môi trường "héo" thì nó "ngáp" theo liền, y hệt con cá thiếu nước, không tài nào cứu được.

Cả nước đang đô thị hóa, công nghiệp hóa rầm rầm, cả cái Quê mấy ngàn năm tuổi đang ào ào Tỉnh hóa mà cụ khuyên mẹ hát ru con, chị hát ru em, con nít đánh trống da ếch, thổi kèn lá chuối, các anh chị nông phu trở lại hò ơ như thời... Gia Long!

Ao sắp cạn ráo rồi, mà cụ kêu con cá lội tung tăng thì nó lội làm sao, hỡi cụ!

Cũ còn, cũ mất

Môi trường văn hóa ở ta đang dâu bể dữ dằn, những thành quả văn hóa của thời trước chỉ may ra bảo tàng được chứ không hy vọng giữ sống được, nói chi sống khỏe.

Trước khi ao Quê không còn giọt nước, ta bắt cá quan họ, cá chèo, cá ca trù v.v. lên bỏ vào đoàn dân ca này, đoàn chèo kia, câu lạc bộ nọ cho cá sống tạm một thời gian. Cá bơi trong "chum", "vại" cho khỏi quên... bơi rồi thi thoảng công diễn cho độ vài mươi người còn yêu cá. Nhưng người yêu "mỗi năm mỗi vắng"(7), cá buồn biếng lội, rồi ngoẻo luôn (tức khi cả miền Bắc không còn tìm được một em trai em gái nào chịu học hát quan họ, chịu tập diễn chèo). Đến lúc ấy kẻ sống lạc thời muốn thưởng thức chút "í a", "í ơ" cho đỡ nhớ thời lạc, dù đang sống ngay trên quê hương quan họ, cũng chỉ có cách sờ, bấm vào một cái nút!

Trần Văn Khê nhắc tình hình ở Tây phương. Đa số thanh niên Tây bây giờ họ cũng thích món mới như rock, rap, hip hop gì đó, chứ đâu có màng nghe Bach, Beethoven, Chopin, Mozart, Schubert nữa. Chỗ khác giữa họ với ta là nhạc xưa của Tây hết thời chứ không mất, nó cứ còn người học hoài để mà tiếp tục du dương chễm chệ trên bàn thờ, còn nhạc xưa của ta thì nay con cháu không đứa nào chịu rờ tới nên nó đành nằm... ngậm tăm dưới gầm giường.

Vẫn cái tự ti. Người ta giàu nên thấy ông bà sao giỏi quá, cái gì làm cũng giỏi, cũng đáng giữ kỹ để khấn vái. Còn ta nghèo nên đâm... mắc cỡ về mọi thứ của tổ tiên, bèn đem giấu hết! "Mai sau (...) có bao giờ"(8) giàu lên như Tây, hãnh diện dân tộc phục hồi, loay hoay tìm cái thành tích (bấy giờ mới thấy là) tuyệt vời của tiền nhân để hương khói, chao ơi, đến lúc ấy dưới gầm giường e chỉ còn toàn không khí!

Còn chút của tin

Mở hộp đĩa, lấy chút "của tin"(9) ra, nhẹ đặt vào máy. "Bây giờ chia rẽ đôi nơi i ì ì ì i i (...) Tình chung í i rằng là ai tỏ... cho nhau í i hỡi lòng (...) Tình tang tính, tính tang tình (...) rằng anh Ba ơi, đương vui như thế này, chúng em trở ra về, liệu có nhớ đến chúng em chăng, có nhớ đến chúng em không..."

Nhớ quá đi chứ, người ơi, quan họ ơi, cái bóng vang của một thời ơi. "Ðây rồi quán dốc cây đa"...

__________________________

(1) Có lẽ ý chơi hội Lim (ngày 13/1 âm lịch).

(2) Theo anh C., tác giả tên Văn Thái, làm bài này năm 1992.

(3) Hoàng Cầm tác phẩm - Thơ, nxb. HNV, VN, 2003, tr. 196.

(4) Cung oán, câu 16: "Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa".

(5) Lời hát thực là: "Mai có nhớ người lại sang chơi".

(6) Tất cả những chỗ dẫn TVK đều trong Tiểu phẩm (nxb. Trẻ, VN, 1997) và Hồi ký Trần Văn Khê (nxb. Trẻ, VN, 2001).

(7) Bài "Ông đồ" của Vũ Đình Liên: "Nhưng mỗi năm mỗi vắng / Người thuê viết nay đâu?".

(8) Truyện Kiều, câu 741: "Mai sau, dù có bao giờ".

(9) Truyện Kiều, câu 356: "Của tin gọi một chút này làm ghi" và câu 739: "Mất người còn chút của tin".