Chim Việt Cành Nam                                                                           [  Trở Về   ]       [ Trang chủ ]        [ Tác giả ]

Thơ Trần Xuân An
ĐÀ VÀ LẠT Cạn rồi những cơn mưa, đầu tháng chín
Đà Lạt càng xanh, nắng lạnh quãng chiều
Đêm ngát xanh, mỗi vầng trăng ngời sáng
Trang giấy ban mai, xanh biếc lời yêu?

Vẫn Đà Lạt giữa mùa thu nguyệt lịch
Thoang thoảng đâu đây thoáng gió cổ thi…
Thơ ngừng lại, đẩy anh về phố chợ
Cà phê, trống cơm, hoa níu chân đi

Anh tìm gặp Hồ Xuân hương thuở đó (*)
Bà vẫn xa. Sót vạt áo xanh lam
Một thuở rong rêu, không ai buồn giặt
Giờ óng lên, óng từng sợi tơ tằm?

Anh cười anh, như chưa từng đọc sách
(lần đầu tiên anh quên hết sách rồi!) (*)
Như lũ trẻ say trăng cười vỡ trống
Thuở vỡ ra: Đà Lạt – phố trên trời!

Lại vỡ ra: phố trời cao – Đà Lạt
Ai mặc áo đà, ăn lạt, xa kia (**)
Anh chợt hiểu, ném mớ ba mớ bảy
Hồ Xuân Hương thanh thoát cõi đi về

Đà Lạt tuyệt vời mùa mưa ấm áp
Càng Đà Lạt hơn: cuối chạp ra giêng
Trăng tuổi thu non, nửa dương (Xuân) tục
Nửa âm (là Hương) hẳn vẫn rất thiền (*).
 

Trần Xuân An
7-8.9 HB8
Viết tại Nhà Sáng tác Đà Lạt.
(*) Địa danh chính thức có nghĩa là hồ nước Xuân Hương, nhưng có lẽ người đặt tên đã cố tình gợi lên sự đồng nhất giữa hồ nước ở trung tâm thành phố Đà Lạt với nhà thơ Hồ Xuân Hương, “Bà chúa thơ Nôm” (danh xưng tôn vinh của Xuân Diệu) và cũng là tác giả tập thơ “Lưu hương ký”. Về khía cạnh khác, không một tư liệu nào ghi nhận Hồ Xuân Hương có thời gian sống thiền như một cư sĩ, ni sư, cho dù gần đây có một số nhà nghiên cứu xem “Đồ Sơn bát vịnh”, tám bài thơ viếng cảnh chùa ở Đồ Sơn, cũng là tác phẩm của Hồ Xuân Hương (?). Dù sao, “Đà và Lạt” cũng chỉ là một bài thơ, khi viết, tôi đã khẳng định rõ: tôi tự cho phép mình bông đùa với thiện ý và lòng kính trọng. TXA. (Bổ sung chú thích: 02-10 HB8).
(**) Địa danh phiên âm từ địa danh gốc, tiếng K’Hor: Từ Đạ Lạch (suối Lạch), trở thành Đạ Lát, Đa Lát rồi Đà Lạt. (Bổ sung chú thích: 02-10 HB8).  

 [   Trở Về   ]