Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về  ]          [ Trang Chủ ]

Bách Gia Chư Tử
Thảo Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh
biên soạn
-
Phần Bốn 
*
Lược khảo các tác phẩm của Bách Gia Chư Tử

- 7 -
Các sách của phái tung hoành gia,nông gia, tiểu thuyết gia.
Phụ : sách quỉ cốc tử

Sách Hán chí, ghi sách của Tung Hoành Gia gồm có 12 pho.
1. Tô Tử

31 thiên. Ông tên Tần, có liệt truyện trong Sử ký. Trầm Khâm Hàn viết : Trong Sử ký, Quốc sách thấy ghi Tô Tần 8 thiên, sau khi Tô Tần mất, Tô Đại, Tô Lệ, đều có luận thuyết, Quốc sách lại gọi 2 ông ấy đều là Tô Tử, cho nên mới có sự lầm lẫn với Tô Tần, trong 31 thiên kể trên tất nhiên là có lộn những thiên của Tô Đại, Tô Lệ thêm vào.

Sách của Tô Tử đã mất, trong Chiến Quốc sách và Sử ký còn tìm được những đoạn nói về việc ông du thuyết.

Sách Tùy chí không có ghi sách Tô Tử, mà có ghi Quỉ cốc Tử, gồm 3 quyển. Sách Tân Đường chỉ cũng có ghi Quỉ cốc Tử với lời chú : có chỗ chép là 2 quyển, và nói là của Tô Tần soạn. Sách Hán chí thì có Tô Tử, mà không có Quỉ cốc Tử, nhu thế thì Quỉ cốc Tử có phải là Tô Tần không ?

Thật ra Quỉ cốc Tử chỉ là một nhơn vật truyền thuyết, cho nên Nhạc Đài đã viết : " Tô Tần muốn "thần kỳ hóa" thuyết của mình, cho nên mượn danh Quỉ cốc Tử ".

Bản sách Quỉ cốc Tử còn cho đến ngày nay đáng nghi không phải là của Tô Tần viết rồi mượn danh. Liễu tôn Ngươn trong bài "Biện Quỉ cốc Tử " đã chê là :"Lời nói kỳ dị mà "đạo" thì càng tầm thường".

Sách Chư Tử biện của Tống Liêm thì phê phán : đó là cái trí nhỏ nhoi của loài rắn, chuột, nếu đem dùng trong gia đình thì gia đình tan nát, đem dùng trong nước thì nước hư, đem dùng trong thiên hạ thì mất thiên hạ, các bậc đại phu, học sĩ nên phỉ nhổ bỏ đi mà đừng bàn đến...

Hồ ứng Lân cũng viết : Quyển sách rất quê mùa, nông cạn, nếu là bậc thầy của Trương Nghi, Tô Tần, thì đạo thuật đâu có kém đến mức ấy...

Diêu tế Hằng nhận xét rằng : Đó là quyển sách của người thời Lục triều viết rồi mượn danh Quỉ cốc Tử.

2. Trương Tử

10 thiên. Ông tên Nghi, có liệt truyện trong Sử ký.

3. Bàng Huyên

2 thiên, làm tướng nước Yên.Sách Binh thơ lược, phần Binh quyền mưu gia, có Bàng Huyên 3 thiên, Vương diêm Vận trong quyển Đề Hạc Quan Tử có viết : "Đạo gia Hạc Quan Tử 1 thiên, Tung Hoành gia Bàng Huyên 2 thiên".

4. Khuyết Tử

1 thiên, Khuyết là họ, Tung Hoành gia có Khuyết Tử.

5. Quốc Vu Tử

17 thiên.

6. Tần, Linh Lăng Lịnh Tin

1 thiên. Vấn nạn tướng nước Tần là Lý Tư. Có lẽ đây là gom góp thơ của Linh Lăng lịnh tên Tin gởi cho Lý Tư.

7. Bằng Tử

5 thiên, tên Thông, Bổn truyện có viết : Luận về thời Chiến Quốc, bọn thuyết sĩ quyền biến...

8. Trâu Dương

7 thiên, Trâu Viễn có viết :Ngục trung thượng Lương Vương thơ, có lẽ đây là 1 thiên trong 7 thiên trên.

9. Chủ Phụ Yển

28 thiên. Ông học sở trường và sở đoản của thuyết Tung Hoành. Sách Thuyết Uyển có dẫn lời của ông.

10. Từ Nhạc

1 thiên.

11. Trang An

1 thiên.

12. Đãi Chiếu Kim Mã Liêu Thương

Người nước Triệu, dưới thời Võ Đế.Kim mã là cửa cung nhà Hán, Liêu Thương chờ chiến ở đó. Có chỗ chép là Giao Thương.

*

Sách Hán chí ghi số sách của Tung Hoành gia gồm tất cả 18 pho, cho đến ngày nay đã bị mất tất cả.

Tung Hoành chỉ là một sách lược, không đủ điều kiện để gọi là một học thuyết được, chẳng những không thể so sánh với 5 phái lớn Nho, Mặc, Đạo, Pháp, Danh gia, mà cho đến phái Âm Dương gia cũng không thể bằng được.

Hơn nữa đến đời Tần, Hán thống nhứt của Trung Quốc, số du sĩ không còn chỗ để hoạt động nên đến thời Tây Hán, kẻ sĩ trong phái ấy như nhóm Trâu Dương chỉ là những văn nhân hay là từ phú gia mà thôi, vì lý do ấy mà phái Tung Hoành gia bị mai một rất mau.

Chiến Quốc sách không phải là một loại sách học thuyết của Chư Tử, nhưng cũng có thể nhìn trong ấy phần hoạt động của phái Tung Hoành.

*

Hán chí ghi sách của phái Nông Gia, gồm có 9 pho.

1. Thần Nông

20 thiên. Dưới thời Lục Quốc, Chư Tử nhận thấy có phong trào giải đãi về nông nghiệp, liền đề xướng việc canh nông và mượn tên của Thần nông đề lên quyển sách.

Sách Biệt lục của Lưu Hướng chép : Nghi là sách của Lý Ly và Thương Quân mà mượn tên Thần nông.

Dưới thời Thần nông, chưa có văn tự, đâu có thể viết sách được, rõ ràng là sách của người đời sau mượn danh người xưa.

Sách Mạnh Tử, thiên Đằng văn Công có viết :"Có người mượn lời của Thần nông, đó là Hứa Hành", như thế Hứa Hành cũng có mượn danh Thần nông.

2. Dã Lão

17 thiên. Người thời Lục Quốc, ở vùng Tề, Sở. Dã Lão không phải tên người, vì ông nói việc canh nông, cho nên đặt tên là Dã Lão.

3. Tể Thị

17 thiên. Không biết người thuộc thời nào. Có thuyết cho rằng ông là Kế Nhiên, người ở Thái khâu trên dòng sông Bộc, họ Tể, tự Văn Tử, tổ tiên ông là Công tử nước Tấn, ông thường đi về phương Nam, Phạm Lãi thờ làm thầy, nhưng thuyết nầy không có bằng chứng gì xác đáng cả.

4. Đổng An Quốc

16 thiên. Quan Nội sử nhà Hán, không biết rõ thuộc vào đời vua nào.

5. Doãn Đô Uý

14 thiên. Không biết người thuộc thời nào. Có thuyết cho rằng ông tên Trạch, và viết sách dạy cách trồng rau dưa.

6. Triệu Thị

5 thiên. Không biết người thuộc thời nào. Ông viết sách dạy người trồng cây, cày cấy.

7. Phạm Thắng Chi

18 thiên. Làm quan Nghị lang dưới thời Võ đế. Quyển sách của ông có lẽ bị mất vào lúc cuối đời Nam Tống.

8. Vương Thị

6 thiên. Không biết người thuộc thời nào.

9. Thái Quỳ

1 thiên. Người dưới thời Tuyên đế, Lưu Hướng viết là người đất Hàm Đan.

*

Trở lên, sách Hán chí ghi sách của phái Nông gia gồm 9 quyển đều bị mất tất cả, sách của Thần nông chắc chắn là do người đời sau viết rồi mượn danh, sách Dã Lão thì không biết do ai viết, Tể thị, Doãn đô úy, Triệu thị, Vương thị đều không rõ ở đời vua nào, chỉ có Phạm Thắng và Thái Quỳ là biết lai lịch chút ít.

Sách Doãn Đô Uý thì viết về cách trồng rau, dưa, sách của Triệu Thị, Phạm Thắng, Thái Quỳ thì viết về cách làm ruộng, tất cả đều nói về ngành chuyên môn trồng trọt chớ không phải trình bày một học thuyết nào cả.

Khi Tần Thủy Hoàng ra lịnh đốt sách, các loại sách trồng trọt thuộc ngoại lệ. Sách Hán chí ghi từ Đổng An Quốc trở xuống gồm có 6 quyển, đều là sách viết dưới thời Tây Hán mà cũng bị mất, có lẽ vì loại sách ấy không được người thích xem chăng ?

Trong phái Nông gia, duy chỉ có Hứa Hành chủ trương "Vua tôi cùng đi cày", đó là lý tưởng rất cao quí, nhưng Hán chí không thấy ghi sách của ông, có phải ông không có viết gì chăng ?

Trong sách Mạnh Tử có nêu qua học thuyết của Hứa Hành, nhờ đó mà người đời sau biết qua chủ trương của ông.

*

Hán chí có chép sách của phái Tiểu thuyết gia được 15 quyển.

1. Y Doãn Thuyết

27 thiên. Lời văn thật thô thiển, dường như do người đời sau viết mà mượn danh ông.

Quyển nầy chép về chuyện truyền thuyết của Y Doãn, không phải là quyển Y Doãn của Đạo gia cho nên được ghi ở phần Tiểu thuyết gia.

2. Bật Tử Thuyết

19 thiên. Nghi người đời sau viết thêm vào. Sách Đường chí phần Tiểu thuyết gia cũng có Bật Tử 1 quyển nghi rằng là quyển nầy.

Đạo gia có Bật Tử, ở đây lại có Bật Tử thuyết, cũng y như trường hợp sách Y Doãn đã kể trên.

Sách nầy ghi về những chuyện Võ Vương phạt Trụ.

3. Châu Khảo

76 thiên. Khảo xét vể những việc dưới thời nhà Châu.

4. Thanh Sử Tử

57 thiên. Ký sự của sử quan thời xưa. Thái sử nhà Tấn, con của Đổng Hồ được phong ruộng Thanh Sử, nhơn đó mà lấy làm họ luôn.

5. Sư Khoáng

6 thiên. Thấy có chép trong Xuân Thu, lời văn thô thiển, có lẽ do người đời sau viết và mượn danh.

Quyển sách nầy do người đời sau gom góp di ngôn, dật sự của Sư Khoáng mà viết ra.

6. Vụ Thành Tử

11 thiên. Sách Hàn Phi ngoại truyện chép vua Nghiêu học với Vụ Thành Tử, sách Tuân Tử chép vua Thuấn học với Vụ Thành Chiêu.

Vụ Thành Tử và Vụ Thành Chiêu có phải là một người hay không, điều đó không có tài liệu gì để minh xác được cả, nhưng tương truyền thời xưa có người tên Vụ Thành Tử cho nên phái Tiểu Thuyết gia có người phụ hội viết sách và mượn danh ông.

7. Tống Tử

18 thiên. Tuân Khanh nói về Tống Tử, cho rằng lời nói của ông giống ý Hoàng Lão.

Trong thiên Phi thập nhị tử, Tuân Tử sắp chung Tống Hình với Mặc Địch, trong thiên Thiên hạ, Trang Tử cũng viết : Bị hiếp đáp mà chẳng thấy nhục, cứu dân trong các cuộc xung đột, chống chiến tranh, chủ trương ngưng việc binh đao.

Ban Cố có nói : Không hiểu ý gì người ta sắp sách ông vào phái Tiểu Thuyết gia.

8. Thiên Ất

3 thiên. Đây cũng là loại sách người đời sau viết, nhưng mượn danh người xưa.

9. Hoàng Đế Thuyết

40 thiên. Cũng do người đời sau viết mà mượn danh. Vì pho nầy viết không thuần nhã nên mới bị liệt vào phái Tiểu Thuyết gia chăng ?

10. Phong Thiện Phương Thuyết

18 thiên. Viết dưới thời Võ đế.

Phong thiện là lễ tế Trời, Đất, bắt đầu từ thời Võ đế. Quyển sách nầy do số phương sĩ dưới thời ấy viết.

11. Đãi Chiếu Thần, Nhiêu, Tâm Thuật

25 thiên. Viết dưới thời Võ đế. Lưu Hướng viết : Nhiêu là người nước Tề, không biết họ là gì, viết sách dưới thời Võ đế, quyển sách đề "Tâm thuật".

12. Đãi Chiếu Thần, An Thành Vị Ương Thuật

1 thiên. Thuộc phái Đạo gia, chủ trương thuyết Dưỡng sanh, gọi là Vị ương thuật. An Thành là tên người.

13. Thần Thọ Châu Kỷ

7 thiên. Người thời Tuyên đế. Sách Châu kỷcũng như Châu khảo, Châu thuyết, đều chép những chuyện của đời nhà Châu truyền lại.

14. Ngu Sơ Châu Thuyết

943 thiên. Người Hà Nam, dưới thời Võ đế, là người phương sĩ làm chức Thị lang, hiệu Hoàng Xa sứ giả.

15. Bách Gia

139 thiên. Sách Phong tục chí viết : Về pho Bách gia có chép chuyện dưới thời nhà Tống , cửa thành bị cháy, liền tát nước dưới ao để dập lửa, cá đều nổi lên, liền đến bắt v.v...

Có lẽ đây là pho sách tạp lục của Bách Gia Chư Tử nên được đặt ra sau cùng của phái Tiểu Thuyết gia.

*

Phái Tiểu Thuyết gia có tất cả 15 quyển sách đã kể trên, nhưng đều mất. Theo tên các quyển sách mà suy đoán, thì có thể phân làm 4 loại :

1. Châu khảo, Châu kỷ, Thanh sử tử, đều thuộc loại dã sử.

2. Y Doãn thuyết, Bật Tử thuyết, là chuyện tích của nhân vật, đó là loại ngoại sử.

3. Phong thiện, Phương thuật, là tác phẩm của bọn phương sĩ thuộc về loại sách Tề hài, Sưu thần [chuyện thần tiên]

4. Sách Tống Tử, ghi những lời nói của Tống Hình, thuộc về loại ngụ ngôn.

Các loại sách trên đây đều ghi chép theo những lời truyền khẩu, đàm luận của dân gian, cho nên mới gọi là Tiểu Thuyết gia.