Văn học chữ Hán
của người Việt Nam hình như không có một tác phẩm nào
viết về ẩm thực dân tộc.
Tùy bút trong mưa của Phạm
Ðình Hổ chứa rất nhiều thứ khác nhau nhưng không hề có
bóng dáng của những thức bày trên mâm cơm. Dù ai đó có
viết về cái "ăn Nôm", viết bằng chữ Hán thì làm sao cho
đến đầu đến đũa được! Bước sang văn học chữ Nôm,
tác phẩm về đề tài ẩm thực cũng vẫn vắng bóng. Chắc
chắn dân tộc Việt Nam từ lâu đã có "miếng ngon". Tại sao
trí thức ta xưa kia không nhắc đến?
Có thể nghĩ, trí
thức xưa là nho sĩ, mà nho thì quan niệm "văn" phải hoặc
chở "đạo", hoặc chép sử, hoặc diễn tình cảm cao nhã,
hoặc nữa để kể những chuyện đáng kể là cùng (1), chứ
không thể nào lại đi tấm tắc, trầm trồ một trong bốn
"khoái". Nhưng thời xưa bên Tàu người ta có viết về ăn.(2)
Tại sao nho Tàu thoải mái "bàn" chuyện ăn cua với kho thịt
heo, mà nho ta lại lúng túng kiêng "tán (thưởng)" giò lụa
với chả? Thiết tưởng ở đây không có kiêng với cữ gì
hết. Ta cũng như Tàu không hề né nhắc đến cái ăn. Chẳng
qua, khi cầm bút lên nho ta cũng như nho Tàu không dành cho đề
tài ăn uống chút ưu tiên nào. Vì cái ăn không được ưu
tiên, nên ở đâu viết thật nhiều ở đó mới thỉnh thoảng
có một đôi bài về nó. Nho Tàu viết tiếng Tàu đã lâu,
viết ra không biết bao nhiêu lời mà kể, do đó lác đác có
văn ăn cua văn kho thịt. Nho ta viết tiếng ta (bằng chữ Nôm)
chưa được bao lâu thì... qua đời, nên chưa kịp động đến
giò đến chả, thế thôi.
*
Viết về ăn đầu
tiên ở nước ta có lẽ là Trương Thị Bích. Khoảng năm 1915
bà cho xuất bản Thực phổ bách thiên, là sách dạy
nấu ăn viết bằng chữ quốc ngữ, gồm 100 bài tứ tuyệt.(3)
Sau đó, Tản Đà có bài thơ "Thú ăn chơi": "Hà tươi cửa
biển Tu-ran / Long Xuyên chén mắm Nghệ An chén cà / (...) / Nay
về Bất Bạt quê nhà / Sông to cá lớn lại là thứ ngon (...)".
Tiếng "thơ ăn" tiên phong vừa đánh, chỉ ít lâu sau đã vang
tiếng khác: "Trong các món ăn quân tử vị / Phở là quà
đáng quí trên đời / Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mươi
/ Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ / (...) / Sống trên
đời, phở không ăn cũng dại / Lúc buông tay ắt phải cúng
kem / Ai ơi, nếm thử kẻo thèm" ("Phở đức tụng" của
Tú Mỡ). Thơ và thơ cùng ngân nga, như khêu gợi, khuyến khích
những ai có khiếu văn chương hãy đem tài ra mà biểu dương
đích đáng miếng ngon dân tộc.
Về việc đưa tinh
hoa ẩm thực Việt Nam vào văn xuôi, tưởng trước tiên nên
nhắc vẫn Tản Đà. Thi sĩ tửu đồ thực khách nổi tiếng
còn là một đầu bếp xuất sắc nữa, thường thích tự mình
nấu nướng lấy và định sẽ viết ghi để lưu truyền một
số bí quyết. Trong bài "Uống rượu với Tản Đà" (1939),
Trương Tửu kể có hỏi nhà thơ về chuyện này và được
trả lời (với "một nụ cười đắc ý nở kín đáo trên
môi"): "Ấy tôi cũng đang tính cho xuất bản một quyển sách
dạy nấu ăn lấy tên là Tản Ðà thực phẩm...". Than
ôi, "tôi" mất tháng 6 cùng năm ấy, mang theo với mình không
biết những ý cao gì về công tác chế biến một số "phẩm"
hẳn rất đáng nên "thực".
Thạch Lam hình như
là tác giả mở đầu cho dòng văn xuôi ẩm thực dân tộc,
với một số bài trong Hà Nội băm sáu phố phường
in năm 1943, đáng nhớ nhất là bài "Một thứ quà của lúa
non: cốm". Vũ Bằng dành riêng hẳn một tác phẩm để vinh
danh Miếng ngon Hà Nội, viết Thương nhớ mười hai
chứa
rất nhiều đoạn văn vô cùng gợi cảm về một số miếng
ngon Bắc bộ khác, và ngoài ra lại còn có chuyên khảo Món
lạ miền Nam. Cũng năm 1957, khi Vũ Bằng xuất bản MNHN
thì Nguyễn Tuân cho phổ biến mấy bài về "hương vị đất
nước", trong đó hay được trầm trồ nhất là bài "Phở".
Đến khoảng đầu thập kỷ 1970, Võ Phiến cũng góp một số
tùy bút về ẩm thực truyền thống. Sau thống nhất, trong
giai đoạn đời sống vật chất còn quá khó khăn, dĩ nhiên
chẳng ai lòng dạ nào mà văn chương ẩm thực. Nhưng rồi
kinh tế đất nước bắt đầu đi lên và ngày càng nhiều
người bắt đầu hào hứng phóng bút về những miếng ngon.
Lần này thì số bài viết về ăn phong phú đến mức rất
khó theo dõi cho thực kỹ càng.
Cái ăn nó là đề
tài thân gần đến nỗi, ngay cả trong những trường hợp
nói chung không có khiếu văn, cứ hễ động nhắc đến những
món ăn thức uống quen thuộc trong thời thơ ấu của mình
là người nọ người kia bỗng dưng như được "thần nhập",
viết linh động hẳn lên, viết hay đáo để!
*
Viết về ăn là diễn
những cảm giác thú vị khi tiếp xúc với miếng ngon. Tiếp
xúc đây không phải đợi đến lúc miếng ngon đã vào miệng
đâu. Ngắm, ngửi, sờ (chẳng hạn cục xôi), nghe (chẳng hạn
tiếng bánh đa vỡ) trước, rồi sau mới đến nếm... Người
Việt Nam "ăn" bằng cả ngũ quan, với mũi tham gia đặc biệt
tích cực, chứ không phải cơ bản chỉ bằng mắt và lưỡi
như người Tây phương.
Viết về ăn lại
nhiều khi đi quá việc diễn cảm giác. Bởi ăn một miếng,
có khi mới bằng mắt hay mũi thôi, có thể thấy cả một
trời cảm xúc, hay đến được những nhận thức có chiều
sâu đáng kể. Miếng ăn, miếng cảm, miếng nghĩ, chao ơi!
Sau đây hãy cùng
nhau ôn lại những "lời ăn" thật là tha thiết của một số
thực khách văn nhân dân tộc.
*
Thạch Lam
"Cốm (...) mang
trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết
của đồng quê Việt Nam (...) Thật đáng tiếc (...) những
thức quý của đất (nước) mình (đang bị) thay dần bằng
những thức bóng bẩy hào nháng và thô kệch bắt chước người
ngoài".
Quả thực, cốm
xứng đáng đại biểu cho cái tinh thần của ẩm thực truyền
thống Việt Nam. Còn cái sự "thật đáng tiếc" thì, chao ơi,
xưa trong thời đất nước bị ngoại nhân cai trị đã thế,
mà nay độc lập, tự do, lại càng thế! Nông nỗi nguồn cơn
bởi tuy ta đã đánh đuổi được giặc Tây ra khỏi xứ sở
nhưng nước ta hãy còn thua xa các nước Tây về vật chất,
người Việt bây giờ vừa thôi căm hờn vừa vẫn tự ti,
nên đua nhau thờ lấy thờ để tất cả mọi thứ của Tây!
Chỉ có một chút may là ta không thờ mọi thứ của Tây ngang
nhau: mặc Tây lâu rồi nhưng ăn thì vẫn còn cơ bản Việt.
Vũ Bằng
Mở đầu Miếng
ngon Hà Nội là lời "dựng" cảm động: "Ăn một miếng
ngon của đất nước thấy bừng lên ở trong lòng một mối
hạnh phúc, vì đã được ăn vào trong mình một chút gì của
đất nước, một tinh túy truyền từ năm, tháng nọ sang tháng,
năm kia (...) Những miếng ngon mà người Việt Nam ăn vào thấy
ngát mùi đất nước Việt Nam, thấy mình Việt Nam hơn, và
thấy thích thú, kiêu hãnh được trời cho làm người Việt
Nam".
"Hạnh phúc", thậm
chí "kiêu hãnh", bởi mỗi miếng ngon là cả một thành tích
văn hóa chứ đâu phải chỉ một miếng ăn cho no. Về loại
thành tích ấy, nước Việt Nam nhất định không nhường bất
cứ "siêu cường" nào. Nếu xem mỗi loại hình văn hóa truyền
thống như một thành trì, thì cái thành ẩm thực tuy cũng
đã nao núng ở một số chỗ nhưng tương đối còn đứng
vững chắc hơn hẳn mọi thành trì khác. Nó không đổ bất
chấp cuộc xâm lăng văn hóa ác liệt của Tây phương và bất
chấp cả cơn say tự Tây hóa kịch liệt của đông đảo đồng
bào. Nhưng nó rồi cũng sẽ đổ, khi sinh môi và sinh hoạt
của dân tộc Việt Nam hoàn toàn thay đổi. Phở, bánh cuốn,
bún ốc, bún chả, chả cá..., có khi chỉ trăm năm nữa, với
chính người Hà Nội, đã thành lạ quá! Thôi.
Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân có
lẽ ăn giỏi chẳng kém bất cứ ai nhưng mãi sau 1945 mới có
thỉnh thoảng viết về ăn, nổi tiếng nhất là bài "Phở",
hình như kế đến là bài "Giò lụa". Trong bài "Cốm" lòng
người cũng thật là "chan hòa cảm thông" với miếng ngon quê
hương:
"Mỗi lần Hồ
Gươm lăn tăn ánh vàng nắng thu, mỗi lần những chòm mây
mùa thu dãy Ba Vì và dãy Tam Ðảo soi vào lòng sóng Hồ Tây,
thì phố phường Hà Nội lại thấy xuất hiện cái bóng dáng
êm ả của người gánh cốm Vòng tiến vào theo đường cửa
ô Cầu Giấy. Lúc này cũng là lúc khắp nơi nơi, nắng mùa
thu đang vẩy những đốm trứng cuốc vào mọi trái chuối
tiêu đang vuốt cong lên cái màu vàng ngọt, và nắng mùa thu
cũng đang làm bóng lên cái màu đỏ hổ phách bay phấn của
những quả hồng trứng cũng đang vểnh hết cả tai hồng lên.
Không hiểu đây là sự dàn xếp của mùa thu Việt Nam hay là
sự hẹn hò của thời trân phẩm quả mà chuối tiêu trứng
cuốc lại hay gặp mùa cốm và cốm lại gặp hồng trứng.
Chất nó ăn ý với nhau mà màu sắc nó còn gắn bó với nhau
hơn nữa (...) theo tôi cái màu xanh của cốm Vòng là thứ màu
xanh đẹp hơn cả cái màu xanh của ngọc thạch. Cốm xanh đậm
ấy mà lại là lá sen xanh phấn làm đĩa đựng càng thấy
mình cùng tạo vật sao mà nó chan hòa cảm thông đến được
như thế. Cốm rờn lên một niềm vui bất tận xanh, mà trên
mặt đó lại cho chằng lên một múi lạt chữ thập nhuộm
đỏ cánh sen để gửi đến ngõ nhà người yêu, để đặt
trên bàn tiệc cưới, đám hỏi thì quả cái màu xanh thật
là màu của nguyện vọng hạnh phúc".
Võ Phiến
Vốn chỉ hào hứng
về vài món Trung, sau khi vào Sài Gòn, được thưởng thức
một số món Bắc và món Nam, Võ Phiến dần trở nên nhiệt
liệt về nghệ thuật ăn uống truyền thống: "Rau thơm (...)
trong một bữa gỏi cá sống chẳng hạn, hàng chục thứ rau
chọn lựa công phu (...) mùi nọ lẫn với mùi kia, tôn nhau
lên, chế hóa nhau: đó là một cuộc hòa tấu, một bản nhạc
mùi! (...) Cái thiên tài của chúng ta (...) Một dân tộc (...)
bậc sư trong khoa (dùng) hương liệu", "Chè Huế (...) ngọt
sang trọng", "Nước mắm ngon (...) cũng như rượu, cũng lại
như trà". Món ăn thức uống có khi chỉ là cớ để Võ
Phiến miên man về đủ thứ chuyện. "Theo chân một món ăn"
kể nỗi long đong của nhiều kiếp sống một thời, "Hạt
bọt trà" chứa cảm khái trước sự ra đi của một nếp sống,
"Chiếc bánh tráng" chứa vai trò lịch sử khả dĩ của một
món ăn, "Gắn, gùa và gụ" nêu tính đa dạng của văn hóa
ẩm thực Việt Nam... Bát nọ bát kia, ai khéo nhìn thấy "long
lanh đáy bát in
đời"!(4)
Tô Hoài
Tô Hoài viết về
ăn giống Võ Phiến ở chỗ cũng hay để ý đến "đời sống"
của món nọ món kia. Nhưng ông không cảm nghĩ tùy hứng như
Võ Phiến mà tập trung hồi tưởng để chép ra cho thật tường
tận cái lịch sử hình thành một số món ăn. Có phải ông
là "sử gia" số một của những món ăn truyền thống ở Hà
Nội và các vùng lân cận (mà bây giờ đã hóa Hà Nội)?
Về giá trị nghệ
thuật của ẩm thực dân tộc, Tô Hoài không dùng lời sôi
nổi (hình như về bất cứ đề tài nào Tô Hoài bao giờ cũng
biểu lộ chừng mực, thậm chí nhiều khi như cố ý tạo vẻ
dửng dưng), nhưng lòng ông thì chắc chắn dứt khoát chẳng
kém lòng bất cứ ai: "Bây giờ tràn lan (...) những kẹo
và bánh (của nước ngoài) (...) Những cái bánh cái kẹo quen
thuộc (...) mất hút chẳng thấy đâu (...) Trong hội ẩm thực
Hà Nội (...) tháng trước (...) bày bán (...) bánh tẻ Sơn Tây
gạo ngon (...) người ăn đông tíu tít, vừa quen vừa lạ miệng
(...) Cái quen và cái lạ ấy (...) nó là cái ngon quen thuộc
lâu năm của ta, nó khác với cái kẹo, cái bánh xanh đỏ bọc
giấy bóng ở đâu mang về".
Nhẹ nhàng thế
thôi, nhưng đọc thêm lời Tô Hoài kể những "chuyện cũ Hà
Nội" khác, như chuyện mặc, chuyện chào hỏi, chuyện chơi
hoa v.v., sẽ thấy rõ ràng ông hoàn toàn chia sẻ cái ý xót
xa của Thạch Lam năm xưa.
Thanh Hào
Thanh Hào kể cho
ta nghe về một số miếng ngon dân dã vừa mộc mạc lại vừa
cực kỳ tinh tế: "Chè ngô, cái món ăn tưởng chừng như
đơn giản, ấy vậy mà lại rất cầu kỳ, công phu. Không
phải là những hạt ngô bình thường, hay bột ngô, mà nấu
chè được (...) (Phải nấu bằng) ngô non (...) "ngô trứng
ốc". Hạt ngô mới bắt đầu đông sữa, bóc bẹ bắp ra,
hạt vẫn còn vừa trong trong vừa ngả sang màu trắng đục.
Loại ngô này nếu đem luộc chín, khi ăn sậm sựt như ăn
trứng ốc, có tiếng nổ "bép" se sẽ trong miệng, ngọt và
thơm (...) Ðể có bát chè đẹp, bà tôi chọn những bắp ngô
ngon hơn, gọt hớt lấy phần trên của hạt ngô, để riêng
ra một cái đĩa. Khi nồi chè đã được rồi, bà đổ đĩa
ngô này vào, đảo đều cho những mảnh ngô này loáng thoáng
trong chè. Khi múc chè ra, bát chè đẹp như hoa cau trong nước
(...) Mùa xuân cũng là mùa hoa bưởi, chén múc chè được ướp
hoa bưởi cho thơm (...) cát sông rửa sạch, rang lên cho cát
nóng, đổ ra nong, lấy giấy bản trải trên cát rồi đem hoa
bưởi để trên giấy, úp chén đơm chè vào. Mỗi chén úp
vài bông hoa. Cát nóng làm hoa bưởi bốc hơi, đọng lại thành
lớp mồ hôi thơm trong lòng chén (...) Chè ngọt mát, thơm mùi
ngô non, có cái vị phù sa được chắt lọc qua cây ngô, một
hương vị đặc biệt. Người thưởng thức có cảm giác như
trong chất chè có cả chất mát rượi của dòng sông và hương
thơm của cánh bãi. Hương hoa bưởi thi thoảng như hương hoa
của khu vườn, có cả cánh ong bay".
Băng Sơn
Băng Sơn chuyên
về Hà Nội, nhưng có lần ông viết về một miếng ngon quê
cũng thật lôi cuốn: "Ðêm trở trời, nằm trong nhà bỗng
nghe đánh bộp ngoài sân. Mẹ lụi cụi ra nhặt tầu cau vừa
rụng, cắt bỏ phần lá để đun, còn cái mo cau giữ lại,
cất đi. Ngày con đi xa mẹ lấy tấm mo cau đã khô, đem dấp
nước, bới cho con nắm cơm vừa xới ở nồi ra, thơm ngát.
Mẹ cũng gói theo một dúm muối vừng gói trong lá chuối tươi
đã lau sạch. Vừng thơm lựng (...) vừa bùi vừa ngậy, ăn
với cơm nắm nó hợp nhau như cau với trầu, như cốm với
hồng, như dưa hành với bánh chưng (...) Trên chuyến tầu thủy
chạy dọc dòng sông mênh mông (...) tôi giở nắm cơm ra ăn
(...) Gạo mới thơm ngọt mùi cốm, hòa vào mùi thơm của muối
vừng (...) tôi nhai thong thả miếng ngọc thực ấy giữa hơi
ngòn ngọt của dòng sông đầy phù sa, giữa hơi của mo cau
đã mềm (...) Cách ăn (...) dùng con dao thật sắc cắt nắm
cơm thành từng thỏi nhỏ, vuông vức, trông như những khẩu
giò lụa trắng tinh (...) Nắm cơm mà bẻ ra thì quả là mất
ngon. Nó chỉ còn là những tảng những vừng cơm cạnh nồi
(...) Phải gọt phải cắt, phải ăn thong thả (...) Một lần
khác tôi đi xa, ngồi nghỉ dưới bóng mát một cây cổ thụ
ở lưng đèo. Giở cơm nắm ra ăn, gió đồng đưa hương lúa
từ dưới thung lũng lên, gió núi đưa mùi hương cây dại
từ trên núi xuống, đất đỏ thấm vào gan bàn chân, cây
xanh tỏa bóng mát trên đầu... Càng thấm thía vị cơm nắm
mẹ cho mang theo dọc đường xa ngái".
Nguyễn Hà
Nguyễn Hà cũng
là một chuyên gia về hương và vị của Thủ đô. Có lần
ông "Em ơi, Hà Nội sấu":
"Chao ôi, bát canh thịt lợn
nạc với sấu xanh, có bỏ mấy cọng hành, đặt trong chiếc
mâm đồng, cạnh đĩa đậu Mơ rán vàng rộm, kề bên bát
nước chấm màu hổ phách điểm vài ba lát ớt đỏ son (...)
Thử tưởng tượng, giữa trưa hè ai cũng thấy hao háo (...)
mà được chan một bát canh sấu nấu thịt vừa ngọt, vừa
thanh, vừa chua roi rỏi thì thú vị đến chừng nào! (...) Quả
sấu giầm người ta còn cạo vỏ, khía làm tư, lẩy bỏ hạt
non, ngâm rồi rửa bớt nước chua, sau đó đánh nước phèn,
ngâm lại và thắng nước đường, gia thêm chút gừng già
giã nhỏ, để mùa hè pha một ly nước sấu, cho vào vài cục
đá lạnh... ôi thôi có thứ nước giải khát nào (...) sang
hơn thế được".
Lê Minh Hà
Như đa số phụ
nữ, Lê Minh Hà ưa món ngọt và viết nhiều về các loại
chè để ăn. Sao lại "để ăn"? Vì chè có loại để uống.
Khác đa số phụ nữ, Lê Minh Hà thưởng thức cả thứ chè
để uống:
"Nước của chè
xuân Thái Nguyên xanh anh ánh, rất trong, ngỡ như nước chè
tươi uống bằng tách nhỏ, thoáng nhìn tưởng pha không đậm,
chè chưa ngấm, nước không đủ nóng, nhưng hãy thử một
hớp con con. Bất chợt rùng mình vì cái nóng hôi hổi, cái
vị chát khiêu khích, cái vị ngọt sâu thẳm làm khô vòm miệng,
và trên hết là mùi hương hết sức dịu dàng. Nhấp một
chén trà như thế, nhỏ thôi, vào lúc sáng sớm, và đừng
nhấm nháp thêm bất cứ chút gì, sẽ thấy dường như tim
đập nhanh lên một chút. Như cái lúc ngóng chờ một tiếng
gõ cửa ngập ngừng của ai, như cái lúc mở một phong thư,
nét chữ thì quen nhưng câu mở đầu lại bất ngờ dịu dàng
khác lạ, hay lúc đạp xe lang thang, một mình, phố nhỏ, chiều
gió, thấy góc đường đằng kia thoáng như có bóng áo người.
Chao ơi! Những cảm giác của một thời hăm hở, xa xôi quá
rồi, có thể trở về, quyến vờn cùng làn khói mong manh bốc
lên từ chén chè buổi sớm".
Có phải thơ không?
Có phải những ai yêu chè Thái Nguyên đọc xong thấy như "được
cởi tấm lòng" không! "Chè Thái, gái Tuyên", trà Việt Nam được
đông đảo nhân dân chuộng đến nỗi đã đi vào tục ngữ,
thế mà thời tiền chiến không thấy văn thi nhân Việt Nam
nào nhắc đến. Văn chương một thời, rặt những trà Tàu!
Ngoài chè và chè,
đây ta còn gặp xôi, bún, cua đồng v.v., tất cả cũng đều
được gợi bằng thứ lời "quyến vờn" những mùi nhớ vị
thương. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai tình cảm da diết
bộc lộ, chẳng hạn có lúc "nằm khóc một mình". Lê Minh
Hà Thương thế, ngày xưa... nhẹ nhàng kín đáo hơn.
Chập chờn nhiều mảnh ký ức về hoa thơm. "Thơm khắc khoải".
"Thơm bồi hồi, bổi hổi".(5) "Thương thế" là thứ thương
như những mùi hoa trong mảnh vườn quê năm nào, năm nào...
*
Như đã nói, viết
về ăn thì rất nhiều người khắp ba miền đất nước viết
rất hay. Tất cả những lời hết sức tha thiết và đẹp
đẽ ấy đều cùng chung một nội dung cơ bản: "Tôi yêu
món
nước tôi"!(6)
Đối tượng của
lòng yêu mãnh liệt đang biến mất hay biến chất đấy! Chưa
bao giờ trong lịch sử dân tộc, sinh môi và sinh hoạt lại
thay đổi lớn lao như bây giờ. Từng ngày, cái chỗ ta ở
nó đang trở nên giống hệt cái chỗ Tây ở, cái lối ta sống
nó đang trở nên giống hệt cái lối Tây sống! Cả một nước
Quê kỳ cựu đang vùn vụt hóa thân thành một nước Tỉnh
sơ sinh! Trong cuộc "Bể Dâu Của Bể Dâu" này, toàn bộ thành
tích văn hóa của Quê rồi sẽ mai một, kể cả những miếng
ngon.
Gạo thơm coi như
đã "về". Giò lụa, cái miếng ngon có "mùi vị thanh ngậy
(...) tinh tế nhường ấy (...) đỉnh cao của một dạng văn
hóa dân tộc" (Nguyễn Tuân), nó vẫn còn đang ở lại nhưng
lo cho nó quá. Cái gì mà bây giờ trên đất Bắc nơi nó sinh
ra, lớn lên, trẻ con thức dậy là gặp ngay một đĩa xúc-xích,
đến trường thấy ngoài cổng nhan nhản xúc-xích, tan trường
về đến đâu bị xúc-xích đón đường mời mọc đến đó!
Người ta đang đua nhau nhồi nhét không biết bao nhiêu "thịt
Đức" vào bụng trẻ con Việt Nam! Lại nhớ cụ Nguyễn: "Tuổi
thơ ấu của tôi (...) tôi quên sao được những bác Ước
Lễ giò chả bánh dày giò". Tội quá, cụ ơi. Tội gạo
thơm, tội giò thơm, tội thịt gà lợn nuôi tự nhiên dai và
thơm, tội chè Thái thơm "hết sức dịu dàng", tội rượu
quê thơm như "cả một cánh đồng quê tháng Mười"... Nghĩ
mà buồn chảy nước mắt. Người Việt Nam ta ăn uống, trước
tiên là ăn mùi, uống mùi. Thế mà bây giờ đổi mới đành
lòng đi cắt mùi ra khỏi miếng uống, miếng ăn!
Cuộc bể dâu đang
diễn ra, nó lớn lao không thể tưởng tượng được. Khi nó
kết thúc, văn hóa Việt Nam như ta biết, trong đó có văn hóa
ẩm thực, sẽ coi như đã cáo chung. Cho nên tuy chưa "trải"
hết, chưa "trông thấy" hết "những điều", mà lòng đã đau
đớn lắm lắm lắm rồi. Bao nhiêu người Việt Nam viết về
ăn trong khoảng trăm năm qua, hóa ra là đã cùng nhau khắc dựng
lên những tấm bia!
Thu
Tứ
Viết
năm 2005
Sửa
mới nhất 3-2023
_________
(1) Như Việt
điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Vũ trung tùy bút,
Hoàng
Lê nhất thống chí.
(2) Như Lý Lạp
Ông, Viên Mai.
(3) Ví dụ: "Canh
bầu thì thích lá rau hao / Cho biết rau hành bỏ bí đao / Hầm
mít lại ưa sân với lốt / Bí ngô thời phải tỏi gia vào".
(4) Truyện Kiều:
"Long lanh đáy nước in trời".
(5) Trong bài thơ
"Hương hoa nhài" của Chế Lan Viên.
(6) Phạm Duy có
lời ca: "Tôi yêu tiếng nước tôi...". |