Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về  ]          [ Trang Chủ ]

Bách Gia Chư Tử
Thảo Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh
biên soạn
-
Phần Một 
*
Tổng luận về Bách Gia Chư Tử
1. Nguồn gốc Bách Gia Chư Tử   *  2. Người mở đầu cho Chư Tử  *  3. Các môn phái trong Bách Gia Chư Tử   *  4. 10 môn phái chính (thập gia) trong Bách Gia Chư Tử  * 5. Sở trường và sở đoản của 10 môn phái    *  6. Nguyên nhân của sự hưng thạnh và suy vi của bách gia chư tử
1. - Nguồn gốc Bách Gia Chư Tử

Ở nước Trung Hoa, từ thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong đem lại hạnh phúc ấm no cho con người.

Số học giả ấy không phải chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử, hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.

Người xưa cũng gọi Chư Tử là các tác phẩm của những nhà học giả ấy viết ra. Danh từ này được thấy dùng đầu tiên trong pho sách Thất lược.

Dưới thời Tây Hán (206 trước T.L.) vua Thành Đế sai Lưu Hướng làm chức Hiệu Trung bí thơ, Lưu Hướng lo hiệu đính các loại sách Kinh, Truyện, Chư Tử, Thi Phú ; quan Bộ binh Hiệu úy Nhiệm Hoằng hiệu đính các sách Binh thơ ; quan Thái Sử Lịnh Doãn Hàm hiệu đính các sách Số thuật, quan Ngự y Lý Trụ Quốc hiệu đính các sách Y học.

Sau khi Lưu Hướng mất, vua Ai đế sai con Lưu Hướng là Lưu Hàm, lo hoàn thành công việc của cha còn bỏ dở.

Lưu Hàm liền tổng kết hết các loại sách làm pho Thất lược, gồm có Tập lược, Lục Nghệ lược, Chư Tử lược, Thi phí lược, Binh thơ lược, Số thuật lược, Phương Kỷ lược (sách về Y học).

Pho Tập lược là pho Tổng mục về tất cả các pho sách khác, còn lại 6 pho lược sau, thì chia cổ thơ ra làm 6 loại như đã kể.

Như thế thì Thất lược là một pho Cổ thơ của Trung quốc, gom góp tất cả các loại sách lại, phân chia ra thành từng loại, mà Chư Tử là một loại trong pho sách ấy.

Nguyên bản của pho Thất lược đã thất lạc, đến đời Đông Hán (25-214 T.L.) Ban Cố mới cố gắng gom góp lại những điểm trọng yếu để viết thành pho Hán thư Nghệ văn chí, nhờ đó mà mới có thể biết qua đại khái pho Thất lược như thế nào.

Kể từ đó trở đi, dưới thời nhà Tống (420-477 T.L.) có pho Thất chí của Vương Kiệm, bên trong có phần Chư Tử chí, rồi dưới thời nhà Lương (502-555 T.L.) có pho Thất Lục của Nguyễn Hiến Tự, bên trong có phần Tử Binh Lục, tức hợp Chư Tử và Binh thơ lại làm một.

Pho Kinh tịch chí dưới thời nhà Tuỳ (589-614 T.L.) và pho Tứ Khố toàn thư dưới thời nhà Thanh (1667-1911 T.L.) cũng đều có riêng một phần về Chư Tử.

Truy nguyên các sách kể trên đều bắt nguồn từ pho Thất lược, cho nên Chư Tử là tên gọi một loại sách Cổ thơ bắt đầu từ pho Thất lược.

Ông Nhiệm Hoằng, với chức Bộ Binh Hiệu Úy, sở trường về quân sự, cho nên hiệäu đính Binh thơ, Doãn Hàm với chức Thái Sử Lịnh, thì hiệu đính sách Số thuật, Lý Trụ Quốc là Ngự Y thì hiệu đính sách Y học.

Trong 3 loại sách này, đều có người chuyên môn hiệu đính, như thế là hợp lý, vì tính chất của mọi loại sách đều khác biệt nhau, và cũng vì thế mà phải phân ra từng loại riêng biệt.

Về các loại sách Lục Nghệ, Chư Tử, Thi Phú, đều do Lưu Hướng hiệu đính. Các loại sách này phải phân loại là vì tính chất và thể tài của mỗi loại cũng đều khác nhau.

Thi Phú khác với Lục Nghệ và Chư Tử, điều này rất dễ thấy, còn Lục Nghệ và Chư Tử sở dĩ phải phân làm 2 loại, chẳng những là vì Hán Nho tôn trọng loại sách kinh điển, mà cũng vì tích chất và thể tài của hai loại sách này cũng đều khác nhau.

Dưới thời Tây Hán gọi Lục Kinh : Dịch, Thơ, Thi, Lễ, Nhạc, Xuân Thu là Lục Nghệ (khác với Lục Nghệ trong sách Chu Lễ là Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số).

Thế nên trong pho Lục Nghệ lược, người ta ghi chép Lục kinh và các truyện ký như Luận ngữ, Hiếu kinh, và Tiểu Học, gồm tất cả 3 loại, nhưng 3 lo?i nầy chỉ đượïc xem như là phụ dung cho Lục Kinh mà thôi.

Trong pho Lục Kinh, chỉ có Nhạc là không có kinh sách (hay cũng có thể nói là Nhạc không có kinh sách riêng, mà chỉ phụ trong Kinh thi, hay cũng có kẻ nói Nhạc cũng có kinh sách, mà bị mất trong cuộc đốt sách dưới thời nhà Tần). Trong sách Lục Nghệ lược, chắc chắn nhứt là các phần : Dịch, Thơ, Thi, Lễ, Xuân Thu tổng cộng là 5 Kinh (Ngũ Kinh).

* Kinh Dịch lấy Quái từ, Hào từ làm kinh, do vua Văn Vương viết, (cũng có người nói Hào từ do Châu Công viết).

* Kinh Thơ do các Sử quan đời Hạ, Thương, Châu ghi chép những văn cáo được bảo tồn, truyền đến đời sau thành những sử liệu (thiên Tần thệ, thuộc thời kỳ sau cùng, đến thời Tần mục Công do Sử quan nhà Tần chép).

Phần Tụng trong Kinh Thi là những nhạc chương trong giao miếu dưới thời Châu, Thương và của nước Lỗ (thiên Thương Tụng, có người cho là tác phẩm dưới thời nhà Tống)

Về phần Phong trong Kinh Thi, đó là ca dao trong dân gian ở các nơi; về phần Nhã, thì đó là những bài thơ chê hay khen nền chánh trị đương thời.

Những phần kể trên do quan lại sưu tập, đưa đến cho quan Thái Sử phổ âm nhạc, vì thế mà cùng với phần Tụng trong Kinh Thi, do nhạc quan bảo tồn.

* Kinh Lễ có 17 thiên (tức là phần nghi lễ trong Thập tam kinh ngày nay) nguồn gốc là do Nghi chú mà ra, cũng do Lễ quan bảo tồn.

* Kinh Xuân Thu là sử nước Lỗ, do Sử quan nước Lỗ ghi chép và bảo tồn.

Vì thế, chúng ta có thể nói rằng, Ngũ Kinh đều là Quan thơ (sách của quan) đó là học thuyết của các nhà Kinh học cổ văn.

Các nhà Kinh học kim văn thì lại cho rằng Ngũ Kinh do Khổng Tử viết ra, phần Thoán truyện và Tượng truyện là do Khổng Tử thêm vô, phần Văn ngôn, Hệ từ, tuy chẳng phải tự tay Khổng Tử viết, nhưng đó cũng là của kẻ hậu học ghi thuật những lời nói của Khổng Tử, vì thế mà từ thuyết Thiên đạo đi lần đến Nhơn sự, và từ sách Bói toán, đi lần đến thành sách Triết học.

Kinh Thơ bắt đầu từ thiên Đế điển và chấm dứt ở thiên Tần thệ, toàn bộ quyển sách gồm 28 thiên.

Thời xưa, cổ thi có đến hơn 3000 thiên, có thuyết cho là Khổng Tử san định lại còn số 305 thiên. Mặc dù thuyết nầy không có gì đáng tin, nhưng chánh Nhạc là phải chánh Thi, làm cho các phần Nhã và Tụng đúng với vị trí và công dụng, đó là điều có thể tin được. Chính Khổng Tử cũng đã xác nhận điều đó (trong thiên Tử Hãn, sách Luận ngữ, Khổng Tử nói : " Ta từ nước Vệ, trở về nước Lỗ rồi sau đó chính Nhạc, làm cho hai thiên Nhã và Tụng đúng chỗ... ")

Về phần luận về Thi, Khổng Tử cũng có những ý kiến độc đáo, như phân loại Thi thuộc về các thể : Hứng, Quan, Quần, Oán và Tư vô tà, v.v...

Về Lễ, thì Lễ quan chỉ bảo tồn được có 17 thiên, những thiên ấy thuộc về phần Sĩ Lễ, chỉ áp dụng cho các quan chức nhưng Khổng Tử dùng những điều ấy để dạy học trò.

Kinh Xuân Thu là sử nước Lỗ, Khổng Tử thêm bớt, phê phán, để làm thành những gương...những bài học, cho nên Mạnh Tử mới cho là Khổng Tử viết Kinh ấy (xem thiên Đằng văn Công trong sách Mạnh Tử).

Ngũ Kinh là sách do các quan chức thời ấy ghi chép và sưu tập, Khổng Tử sửa chữa và sắp xếp lại cho có thứ tự, vì thế ông mới bảo rằng : " Thuật nhi bất tác " (Thuật lại mà chẳng có viết gì) (xem trong thiên Thuật nhi sách, Luận ngữ).

Nhưng sau khi được Khổng Tử biên soạn lại, Ngũ Kinh lại có được những ý nghĩa mới và những giá trị mới, như thế là có thể nói : Khổng Tử " thuật " mà có " sáng tác "...

Ngũ Kinh nguyên là Quan thơ (sách của quan lại biên soạn) còn sách của Chư Tử là sách sáng tác của tư nhân, khác hẳn với loại Quan thơ.

Khổng Tử đã san định Ngũ Kinh, lấy " thuật " làm sáng tác, nhưng kể cho đúng là phải nói " thuật chớ không có sáng tác gì cả ".

Trong pho Lục Nghệ lược, có ghi chép những phần : Truyện, Ký, Thuyết, Cố sự, mặc dù đó là những trước thuật của tư nhân, nhưng đó cũng là những tác phẩm giải thích thêm Kinh, truyện cũ , cho nên cũng phải kể là " thuật " chớ không có " sáng tác " gì thêm.

Về phần sách của Chư Tử, thì mỗi người ghi chép ý kiến riêng của mình để lập thành một học thuyết riêng biệt, không cần dựa vào một tác phẩm sẵn có nào để ký thác tâm tư riêng của mình, vì thế phải gọi là sáng tác chớ không phải thuật, vì những tác phẩm ấy có những tính chất và thể tài riêng biệt khác hẳn với các loại cổ thơ. Đó là chỗ khác biệt giữa hai loại sách Lục Nghệ và Chư Tử vậy.

Tại sao các tác phẩm sáng tác ấy lại được gọi là của ông " Tử " này, ông " Tử " nọ ? Là vì thuở ấy học trò thường gọi thầy là " Tử " rồi thêm vào cái họ của thầy để phân biệt người này với người khác...ví dụ như Mặc Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử...v.v...

Đa số sách của Chư Tử, đều không phải do chính tay của người ấy viết mà chỉ do đệ tử hay kẻ hậu học ghi chép lại.

Ban đầu những lời ghi chép thật đơn giản, rồi sau đó lần lần được biên soạn thêm cho đầy đủ gom thành sách. Sau khi thành sách rồi, bất câu là do của ai ghi chép, chỉ noi theo những lời ấy của ai đã nói ra mà ghi tên người ấy lên đầu sách để biểu thị cuốn sách ấy nguyên do là của người ấy xướng xuất ra.

Như các sách của Trang Tử, Mặc Tử, v.v...đều do học trò ghi chép lại những lời của thầy, gom góp, sắp xếp lại thành sách và ghi lên trên tên của thầy.

Gom tất cả các loại sách ấy lại nói chung là Chư Tử vậy.

Chúng ta cũng nên tìm hiểu tại sao lúc ấy người ta dùng chữ Tử để gọi thầy. Uông Trung trong quyển Thuật học đã viết : " Đời xưa các chức Khanh, Đại Phu đều gọi là Tử. Tử là tước ngũ đẳng... "

Gần đây, ông Chương Bính Lân trong sách Chư Tử lược khảo cũng có viết : " Chư Tử cũng y như ngày nay chúng ta gọi là " ông ".

Đệ tử ghi chép lời Khổng Tử, hay trước mặt thầy đều dùng chữ Tử, còn người khác khi đề cập đến Khổng Tử thì dùng từ ngữ " Phu Tử " (xem thiên thứ 10 trong sách Thượng luận...vấn đề nầy được phân biệt rất nghiêm minh).

Chữ " Tử " cũng như ngày nay chúng ta gọi " Tiên sinh ", chữ " Phu Tử " cũng có nghĩa là " Tiên sinh ấy ".

Cũng có thể vì các học giả ấy đã từng làm quan (thường là chức Tư khấu) nên mới gọi là Tử.

Khổng Tử đã từng giữ chức Tư khấu, sau đó, Mặc Tử làm Đại Phu nước Tống, Mạnh Tử làm chức Khanh ở Tề, cho nên đệ tử mới dùng chữ Tử để gọi.

Xưng hô như thế, đời nầy truyền sang đời nọ thành thói quen, cũng có khi một người nào đó chưa từng làm quan cũng được đệ tử gọi là Tử như trường hợp của Trang Tử.

Truy nguyên, chữ " Tử " thấy dùng đầu tiên ở môn phái Khổng Tử, rồi kế tiếp sau đó các phái khác dùng theo.

Đời sau cũng có người dùng từ ngữ Bách Gia Chư Tử, cũng đồng với ý nghĩa Chư Tử, nhưng sở dĩ dùng thêm Bách Gia là muốn nêu lên ý nghĩa số nhiều trong nền học thuật phong phú của thời đại ấy.

2. - Người mở đầu cho Chư Tử
Đệ tử gọi thầy là " Tử " ghi chép lời nói, việc làm, đạo đức của thầy. Sách sáng tác của tư nhân, bắt đầu từ môn phái của Khổng Tử như phần trên đã viết.

Tư nhân mở trường dạy học, tư nhân san định Quan thơ để thành tác phẩm của mình, cũng bắt đầu từ thời Khổng Tử, thành ra Khổng Tử là người mở đầu cho Giáo dục sử và Học thuật sử Trung Hoa, mà có lẽ luôn cho cả vùng Đông Phương, và cũng là người mở đầu cho Bách Gia Chư Tử thời Chu, Tần.

Trước thời Khổng Tử, chỉ có Quan học, mà chưa có thầy dạy học tư, chỉ có Quan thơ, mà chưa có sách do tư nhân trước thuật.

Trong số Chư Tử có Lão Tử đồng thời với Khổng Tử, nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử.

Quyển sách của Lão Tử, tương truyền ông viết ra trong khi đi ngang qua cửa ải vào miền Trung nguyên, điều nầy thấy có chép trong pho Sử Ký, ở phần Lão Tử truyện.

Học giả đời sau có kẻ cho Lão Tử là người mở đầu cho Chư Tử. Thật ra, xét kỹ, thì chuyện Lão Tử trong sách Sử Ký, có chỗ mơ hồ, không đáng tin...và Lão Tử là người như thế nào ? Đó còn là một nghi vấn.

Quyển sách của Lão Tử là do người đời sau góp nhặt, tác phẩm ấy do nhiều người và cũng trải qua một thời gian khá lâu mới hoàn thành. (Phần sau của sách này có trình bày rõ).

Hơn nữa Lão Tử cũng không có mở trường dạy học trò, nên họïc thuyết của ông không nhờ đó mà được môn đệ ghi chép lại, cũng y như tình hình của Hoàng Đế, Thần Nông, Y Doãn, Quản Trọng, sách chỉ do người đời sau lượm lặt hay nghe ngóng, truyền khẩu rồi chép lại.

Thế nên, trong Chư Tử chỉ có mình Khổng Tử là người đầu tiên mở đường cho học thuyết của Bách Gia, và quyển Luận Ngữ là quyển sách thứ nhứt đáng kể trong các tác phẩm của Chư Tử.

Tại sao trước thời Khổng Tử lại không có tư nhân viết sách và tư nhân mở trường dạy học ?

Điều nầy có thể do 2 nguyên nhân :

1) Dưới thời cổ đại văn minh vật chất chưa phát triển, giấy viết, bút mực chưa phát minh, mà sách vở chỉ mới bắt đầu có.

Lúc đó người ta dùng mai rùa, thẻ tre, có công dụng như giấy bây giờ, dùng dao khắc để thay cho viết mực. Sách là những thẻ tre có khắc chữ ghép lại, nhưng bắt đầu dùng những vật dụng ấy tự bao giờ thì cho đến ngày nay, chưa thấy sách vở nào ghi chép lại, nên không dám quyết định.

Trong thiên Đa sĩ kinh Thượng thơ có chép : " Duy tiên nhân, nhà Ân có điển, có sách ". Chữ khắc trong mai rùa, (qui giáp) chữ " sách " tượng hình bó thẻ tre cột xâu (xem trong " Ân khư thơ khế tiền biên " quyển 5) còn chữ " điền " thì tượng hình hai bàn tay ôm gộp bó thẻ tre.

Chữ " sách " tượng hình sách vở làm bằng thẻ tre, chữ " điển " là chỉ sự tàng trữ sách vở.

Về văn tự trong qui giáp, một số học giả cho là văn tự dưới thời nhà Ân (1751 trước T.C.), như thế là dưới thời nhà Ân cũng đã có sách làm bằng thẻ tre. (Hình 1)

Dùng dao khắc, bôi sơn vào thành chữ, việc làm vụng về và khó khăn, xâu thanh tre thành sách phiền phức và bề bộn, cho nên tàng trữ sách đã khó khăn, mà viết ra sách lại càng khó khăn hơn, vì thế mà quan lại, chính quyền mới có được sách, còn tư nhân thì không đủ sức để làm ra sách và giữ sách.


Những chữ khắc trên xương thú và mai rùa phát hiện được ở gò nhà Ân.
Đây là tài liệu về chữ viết và sách vở cổ nhứt của Trung Hoa.
(Theo " Ân khư thư khế Thanh Hoa ".
Trích trong Trung Quốc Văn học sử của Trịnh chấn Đạc
quyển 1 trang 28).

2) Chế độ chính trị, xã hội thời Cổ đại, giai tầng Bình dân và giai tầng Quí tộc rất cách biệt nhau.

Giai tầng Quí tộc thống trị về chính trị, trên phương diện kinh tế lại là những đại địa chủ, quan tước cha truyền con nối, điền thổ truyền từ đời nầy sang đời khác, và cũng hưởng một nền giáo dục khác biệt.

Giới Bình dân thuở ấy chỉ là nông nô của Quí tộc mà thôi. Trong quyển Đọc Thông giám luận, Vương Phù Chi đã viết " Những quốc gia dưới thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) đất đai rất hẹp, chỉ bằng một huyện ngày nay mà thôi, kẻ làm quan chỉ ở trong vòng một trăm dặm, con cái của các quan cũng là quan (sĩ) mà người làm quan do cha truyền con nối thì cũng có thế điền do cha mẹ để lại ".

Lúc đó có Khanh, Đại Phu thì bây giờ cũng như thân hào ở hương lý mà thôi (làng xóm).

Đất đai cha truyền con nối, vì thế đời đời trông nom việc cày cấy, săn sóc bờ ao, và cai quản luôn số nông nô cũng đời đời cha truyền con nối làm nông nô.

Số nông nô nầy không có chút địa vị gì về phương diện kinh têá hay chính trị cả, mà cũng không có điều kiện gì để được học hành, sách vở thì chỉ nhà quan mới có, và tử đệ của lớp Quí tộc mới được đọc, lớp người Bình dân đâu có dịp nào để rờ đến quyển sách được.

Nếu số nông nô được bén mảng vào cung phủ của Quí tộc, là chỉ để phục dịch mà thôi, thế nên trong pho " Thượng Thơ " thiên Châu quan có viết :

" Học cổ nhập quan " (muốn học người xưa thì phải vào nhà quan), thiên Khúc lễ trong sách Lễ ký cũng có viết : " Học với nhà quan v.v... "

Nếu như bực thứ nhơn có được làm một việc gì dính liếu với nhà quan thì cũng chẳng khác gì lớp lao công hay tạp dịch ngày nay...Họ chỉ được học những điều hiểu biết sơ sài để làm được trách nhiệm mà thôi.

Những điều hiểu biết ấy rất nông cạn, không thể gọi là học thuật được. Ở lâu trong hoàn cảnh như thế, và chính họ, họ cũng thấy không cần phải học những điều cao thâm làm gì cho vô ích, vì thế học thuật không lan tới lớp Bình dân được.

Lớp Bình dân đã không sách vở, không học thức thì làm sao dạy người khác học, và làm sao viết sách được ?

Lớp Quí tộc có trí thức, nhưng vì phải làm việc chính nên đâu có thì giờ để dạy học trò, viết sách ; và đã là Quí tộc, họ đâu có chịu hạ mình, vì thế dù cho có thì giờ rỗi rảnh, họ cũng không bao giờ chịu tiếp xúc với giới Bình dân thành ra giới Bình dân dâu có điều kiện gần gũi với giới Quí tộc để được học hỏi.

Giới cầm quyền đã thực thi chánh lịnh một cách dễ dàng, thế nên các phép lịnh, điển chương cứ như thế mà truyền đến đời sau, và các sách vở ấy thành ra Quan thơ. Và chính giới cầm quyền, lúc ấy cũng không thấy cần thiết phải dạy thêm điều gì mới lạ để xướng minh học thuyết nào khác riêng biệt của mình.

Tình hình thời Cổ đại là như thế, cho nên chỉ có Quan thơ, mà không có sách của tư nhân trước thuật, chỉ có nền học của nhà quan mà không có thầy tư nhân dạy.

Trước đây, dưới thời nhà Thanh, Chương Học Thành đã viết : " Từ thời Tam đại trở về trước, nền học thuật chỉ để phụng sự cho việc công, kẻ học giả làm quan, và người làm quan với thầy dạy học là một v.v...Đó là sự thật, một sự thật tất nhiên của thời ấy, chớ không thể gọi đó là một thời thạnh trị được.

Chế độ Quí tộc tồn tại, hưng thạnh và suy vi cùng đi một nhịp với chế độ phong kiến của thời ấy. Mà chế độ phong kiến là chế độ Bộ lạc của thời Thượng cổ biến thành chế độ Tù trưởng, Chư hầu.

Xét cho kỹ, các nước chư hầu của thời ấy chỉ là một hình thức biến tướng của Bộ lạc mà thôi.

Đến thời Xuân Thu (770-222 trước T.L.) các nước chư hầu nhỏ, bị các nước lớn thôn tính, và đó cũng là mở đầu cho việc tan rã của chế độ phong kiến, các nước nhỏ bị thôn tính, bị chia thành quận huyện dưới quyền cai trị của trung ương, hình thành lần lần chế độ tập quyền. Đến đời Tần Thuỷ Hoàng (221 trước T.L.) chế độ phong kiến bị chấm dứt, vì nhà Tần đã tóm thâu tất cả các nước chư hầu lớn nhỏ còn sót lại.

Tầng lớp Quí tộc suy vi, lớp Bình dân có cơ hội quật khởi, đó là diễn tiến tất nhiên của lịch sử, không một lực lượng nào có thể ngăn lại được.

Và cũng từ đó, vải lụa được lần lần thay thế cho thẻ tre trong việc ghi chép. Đây là một đặc điểm mới về văn hoá cuối thời Xuân Thu.

Trong sách Luận Ngữ có chép : " Tử Trương viết ở dãi áo ". Mặc Tử cũng có nói : " Viết ở thẻ tre và lụa ". Đó là những bằng chứng, vào thời ấy, người ta dùng vải lụa để viết, thay thế lần lần cho thẻ tre.

Truyền rằng người nước Tề là Tiết Tắc chế ra mực, người nước Tần là Mông Điểm chế ra bút, đều là những người dưới thời Chiến Quốc (222 trước T.L.)

Nhờ việc sáng chế bút mực, người ta khỏi phải dùng dao để khắc chữ và bôi sơn để viết lên tre hay mai rùa, và Khổng Tử đã may mắn sanh vào thời gian ấy.

Theo sách vở ghi chép thì Khổng Tử sanh trong gia đình một Quí tộc ở nước Tống, rồi dời sang nước Lỗ, và trở thành một gia đình trong giới bình dân.

Khổng Tử là người ham học, chịu khó tìm hiểu, học mà ít nhờ thầy, chỉ nhờ nỗ lực riêng của mình mà hiểu biết, cho nên mới trở thành một học giả xuất sắc.

Lúc còn nhỏ, ông sống trong giới bình dân, lớn lên có ra làm quan rồi sau đó mất địa vị chánh trị, vì thế không thực hiện được lý tưởng cứu đời của mình.

Đó là chỗ không may của Khổng Tử, mà cũng vì không được ở lâu trong chánh quyền, ông mới lo sang việc dạy học trò, viết sách, lập ra học thuyết để dẫn dắt cho đời sau.

Ông đã mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử giáo dục và học thuật nước Trung Hoa. Ông cũng khơi nguồn cho Bách Gia Chư Tử sau này, đáng kể là một học giả đã mở đầu cho một thời đại sáng lạn của Trung Hoa.

Trong cái không may (không được làm quan lâu) Khổng Tử đã làm được một điều có thể nói là vĩ đại trong lịch sử.

Trong sách Tả truyện, đoạn Tương Công năm thứ 24 có viết : " Bực thái thượng lập đức, kế đó là lập công và kế đó là lập ngôn " (xây dựng học thuyết).

Lập đức, lập công, tức Trang Tử gọi là đại nghiệp của Nội Thánh, Ngoại Vương. Nếu không lập công được thì bất đắc dĩ phải viết sách, dạy người ; lập ngôn là để lại cho hậu thế được nhờ.

Khổng Tử biên soạn Kinh Thơ, củ chánh Kinh Thi, san định Kinh Lễ, là chỉ làm việc chỉnh lý lại các sách ấy. Còn việc san định Kinh Dịch, sửa Kinh Xuân Thu thì lại có công làm cho những pho sách cổ ấy có những ý nghĩa mới và có những giá trị mới, tức là đã biến Quan thơ thành ra tác phẩm của tư nhân. Với câu " Thuật mà không sáng tác " thật ra là lấy việc thuật làm việc sáng tác, cũng như đoạn trên đã nói.

Sự việc, và cách hành văn trong Kinh Dịch và Xuân Thu mường tượng như quyển sử nước Lỗ, nội dung của Thi, Thơ, Lễ không có gì thay đổi, vì thế đứng trên phương diện nội dung và thể tài mà xét, thì những sách kể trên là Kinh truyện chớ không phải là Chư Tử, thế nên mặc dù đó là mở đầu cho việc tư nhân sáng tác, nhưng phải liệt những tác phẩm ấy vào pho Lục Nghệ lược.

Sách Luận Ngữ là do môn đệ của Khổng Tử ghi chép lời của thầy, đầy đủ điều kiện để thành lý thuyết của một môn phái riêng biệt, và cũng nhận thấy đầu đủ tính chất, thể tài riêng biệt của học thuyết Khổng Tử ở trong sách ấy, khác hẳn với Kinh truyện.

Vì sách Luận Ngữ chỉ ghi ngôn ngữ của Khổng Tử, và có ghi kèm theo lời nói của các Đại đệ tử, cho nên mới đặt tên thành một quyển sách riêng biệt.

Đệ tử, môn nhơn ghi những lời nói của Thầy, thành một tác phẩm riêng biệt của tư nhân bắt đầu từ đó.

Kế tiếp, Mạnh Tử đã tự nguyện học theo Khổng Tử, trong sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, những lời nói Khổng Tử cũng do đệ tử ghi chép, nên toàn bộ sách này cũng phỏng theo lề lối của Luận Ngữ.

Tính chất và thể tài của hai quyển Luận Ngữ và Mạnh Tử hoàn toàn giống nhau.

Trong pho Hán chí, Mạnh Tử được liệt kê vào phái Nho gia, trong Chư Tử lược, còn sách Luận Ngữ thì lại được ghép vào Lục Nghệ lược chỉ với ý nghĩa là muốn độc tôn Khổng Tử.

Xét trên thực tế, ghép pho Luận Ngữ vào Lục Nghệ lược thấy không thoả đáng bằng cách đặt pho sách nầy lên hàng đầu của Bách Gia Chư Tử.

Thân thế Chư Tử là bắt đầu từ Khổng Tử, còn sách Luận Ngữ cũng là pho sách mở đầu cho Chư Tử nên trong phần lược khảo về tác phẩm, chúng tôi cũng bắt đầu từ pho Luận Ngữ.

3. - Các môn phái trong bách gia chư tử
Từ Khổng Tử trở về sau, việc tư nhân dạy học, tư nhân sáng tác đã trở thành một phong trào, và nền học vấn của vua quan cũng lan lần trong dân gian.

Kẻ hiền tài, bực nhân sĩ, nhìn thấy cuộc đời thay đổi, muốn đem sở học của mình ra để cứu nguy thời thế, để dạy dỗ hướng dẫn người sau, vì thế mà phong trào học tập sôi nổi, phong trào sáng tác cũng tiến lên mạnh mẽ, sách vở lần lượt ra đời rất nhiều. Nhờ thế mà Bách Gia Chư Tử xuất hiện, hình thành một thời đại vàng son trong ngành học thuật nước Trung Hoa.

Thật ra Bách Gia Chư Tử thật có nhiều, nhưng chúng ta không thể nào biết được một cách chính xác về nhân vật và học thuyết của những nhà ấy như thế nào.

Chúng ta chỉ đành tìm hiểu được trong một phạm vi có hạn nào đó thôi, và mỗi người tùy theo khả năng và sở thích của mình mà tìm hiểu chỗ mình muốn.

Sở dĩ như thế là vì tài liệu lưu truyền cho đến ngày nay bị thất lạc rất nhiều, và lúc ấy, các Môn phái cũng nhiều và cũng phức tạp.

Về tài liệu ghi chép các Môn phái trong Bách Gia Chư Tử, trước tiên thấy có trong sách Trang Tử ở thiên Thiên hạ.

Trong thiên này, Trang Tử đã sắp " Các kẻ sĩ của nước Trâu, Lỗ " vào phần tổng luận, mà kẻ sĩ của Trâu, Lỗ, người đời sau gọi là Nho gia vậy.

Kế đó lại viết " Nền đạo thuật bị phân chia " đó là muốn nói đến Chư Tử.

Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử đã cho rằng Khổng Tử là người mở đường cho Bách Gia Chư Tử. (Nên chú ý : thời ấy viết Trâu Lỗ chí sĩ là nói đến Khổng Tử, còn Mạnh Tử thì gọi là Lỗ Trâu, nên phân biệt rõ).

Khi bình luận Chư Tử, Trang Tử đã sắp Mặc Định và Cầm hoạt Ly vào một phái, tức gọi là Mặc gia, Tống Hình và Doãn Văn cũng làm một phái, phái nầy tiếp cận với Mặc gia. (Sách Hán chí kể Tống Tử vào phái Tiểu thuyết gia).

Trang Tử cũng sắp Doãn Văn, vào phái Danh gia, mà Lưu Hàm thì lại cho rằng Doãn Văn lại gần với Hoàng Lão hơn. Có người lại sắp Tống Hình với Doãn Văn nằm trung gian ở giữa hai phái Đạo gia và Mặc gia.

Về phần Bành Mông, Điền Biền và Thận Đáo thì sắp thành một phái, học thuyết gần với Đạo gia. (Về Bành Mông thì không thấy tài liệu nào nói rõ, theo sách Hán chí thì Đạo gia có Điền Tử, Pháp gia có Thận Tử, nhưng trong thiên Giải Tế, sách của Tuân Tử thì lại nói Thận Đáo học theo thuật của Hoàng Lão).

Huệ thi là một phái riêng tức là phái Danh gia, Quan Doãn, Lão Đam làm một phái, Trang Chu là một phái riêng, tất cả đều là Đạo gia.

Trong thiên Thiên hạ của sách Trang Tử, chỉ ghi tên người đại biểu cho từng môn phái mà không liệt kê vào hệ thống nào, sau đó mới nhận xét tính chất của các môn phái tìm chỗ tương đồng mà xếp vào các hệ phái lớn, gồm có : Nho, Đạo, Mặc, Pháp và Danh gia.

Trong thiên Phi thập nhị tử, Tuân Tử đã phân làm 6 phái : Đà Hào, Ngụy Mâu làm một phái, Trần Trọng, Sử Du làm một phái ; Mặc Địch, Tống Hình làm một phái ; Thận Đáo, Điền Biền làm một phái ; Huệ Thi, Đặng Tích làm một phái ; Tử Tư, Mạnh Kha làm một phái.

Ngụy Mâu tức là người trong sách Hán chí gọi là Ngụy Công Tử, Mâu Thuộc phái Đạo gia, còn Đặng Tích thì sách Hán chí ghép vào phái Danh gia. Tử Tư và Manh Kha thì sách Hán chí liệt vào Nho gia.

Trần Trọng tức là người trong sách Mạnh Tử gọi là Ô Lăng Trần Trọng Tử, còn Sử Du tức là người trong sách Luận Ngữ phê phán " Sử Ngư là người chánh trực ". Trần Trọng và Sử Du là hai người nổi tiếng về đức hạnh mà không có trước thuật quyển sách nào nổi danh.

Trong thiên Phi thập nhị tử, Tuân Tử đã đề cập đến các phái, nhờ đó mà sau nầy, mới có tài liệu để phân tích sắp xếp thành hệ phái.

Tóm lại, trong tất cả Chư Tử, từ trước đến nay, ai ai cũng sắp xếp vào trong 5 hệ phái lớn mà thôi, tức là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia và Danh gia.

Các phái trong Chư Tử đều được sắp xếp vào hệ phái tức là " Gia ". Nhưng trong số 5 hệ phái ấy, chỉ có Nho, Mặc là xuất hiện trước hơn hết.

Trong thiên Tận Tâm, Mạnh Tử có viết : " Bỏ họ Mặc thì về họ Dương, bỏ họ Dương thì về Nho " (Dương tức là Dương Chu không phải là tên một học phái, còn Nho và Mặc đều là tên của học phái).

Trong thiên Hiển Học, Hàn Phi có viết : " Học thuyết nổi nhứt của thời nay là Nho và Mặc ". Như thế thì dưới thời Chiến quốc, chỉ có Mặc gia là tương đương được với Nho gia mà thôi.

Trong thiên Định pháp, Hàn Phi đã bàn đến Thương Ưởng và Thân bất Hại mà chỉ dùng chữ Định Pháp, như thế thì dường như dưới thời Chiến quốc, chưa có ai dùng đến chữ Pháp gia...

Trong phần Tự tự, sách Sử ký có dẫn lời Tư mã Đàm, luận về ý nghĩa trọng yếu của Lục gia và liệt kê ra các Âm dương gia, Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia và Đạo đức gia so sánh với Trang Tử và Tuân Tử thì thấy có thêm một nhà nữa là Âm dương gia.

Theo sách Hán chí, có chép sách của Âm dương gia và Tống tư Tinh tử Vĩ.

Tư mã Đàm gọi sở trường của phái Âm dương gia là " trình bày sự thuận lợi của 4 mùa ". Sách Hán chí thì gọi sở trường của Âm dương gia là : " Hiểu biết ngày tháng trăng sao để làm giờ cho người dùng ".

Như thế là phái Âm dương gia lấy " lịch " làm ngành học thuật chuyên môn của mình.

Cha con Tư mã Đàm, dưới thời Hán Võ Đế, làm quan Thái sử lịnh cha truyền con nối. Tư mã Thiên có viết : " Chép sử về lịch, trăng sao rất gần với việc bói toán ".

Tư mã Thiên đã định " Thái sơ lịch " cho vua Võ Đế, đó là nền học vấn gia truyền của họ Tư mã là môn Tinh lịch của Âm dương gia.

Trong thiên Đế điển của sách Thượng thơ cũng có chép điều nầy, nhưng không có bằng chứng xác đáng gì để tin, nếu cho rằng dưới thời vua Nghiêu đã có ngành học về " Tinh lịch " thật là một điều đáng nghi.

Có điều mà chúng ta dám quả quyết là " Tinh lịch " được phát minh sớm, có lẽ trước thời Xuân Thu, đó là điều xác đáng.

Tư mã Đàm đã tăng thêm trong số hệ phái, môn Âm dương gia cũng là điều hợp lý. Đến giữa thời Tây Hán, khi chép về các phái trong Chư Tử, thấy có phần khác hơn dưới thời Chiến quốc.

Đến cuối đời Tây hán, Lư Hâm viết về Chư Tử lược trong sách Thất lược có thêm nhiều phái hơn là Tư mã Đàm.

Lưu Hâm đã thêm 4 môn phái nữa là : Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu thuyết gia. Nhưng lại cho phái Tiểu thuyết gia là " tiểu đạo " không đáng kể.

Lưu Hâm đã viết : " Trong số thân gia Chư Tử, chỉ có 9 là đáng kể mà thôi ".

Trong sách Thất lược, Lưu Hâm có dùng chữ " Lưu " để chỉ là " phái ", vì thế người đời sau có dùng chữ " Lưu " như trong câu " Cửu Lưu tam giáo " để chỉ 9 phái và 3 tôn giáo.

So với Tư mã Đàm thì Lưu Hâm đã phân biệt thêm nhiều phái, như thế chúng ta có thể nhận xét là vào cuối thời Tây Hán, các thuyết của môn phái có phần khác hơn các phái xuất hiện vào giữa thời Tây Hán.

Tóm lại các phái trong Chư Tử, và ai đại diện cho từng phái là do theo sự nhận xét, phân tích của người đời sau, mà sự nhận xét ấy mỗi người mỗi khác theo sự chủ quan và cách qui nạp của mình.

Vì sự nhận xét và sắp xếp không giống nhau, cho nên người đại diện cho từng phái cũng được sắp xếp theo ý chủ quan của mỗi người.

Ví như Tống Tử, trong Hán chí thì cho là gần với Hoàng Lão, mà trong sách của Trang Tử lại sắp xếp ông nầy bên cạnh Doãn Văn, còn sách Hán chí thì lại sắp Mặc Địch (Mặc gia) vào môn phái Tiểu thuyết, thật là một điều rất chủ quan.

Tên gọi các phái trong Chư Tử cũng do người đời sau định ra, chớ không phải do người đã xướng xuất ra học thuyết ấy tự đặt cho phái mình dùng để hiệu triệu người khác và phổ biến học thuyết.

Vì thế, chúng ta thấy Khổng Tử là người khai sáng ra Nho gia, nhưng không bao giờ ông dùng chữ Nho để gọi học phái của mình (Điều nên chú ý là trong thiên Ung Dã trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử có câu : " Khổng Tử bảo Tử Hạ, người hãy làm quân tử nho, đừng làm tiểu nhơn nho. Chữ Nho ở đây là chỉ kẻ sĩ có học thức, một chữ thường dùng lúc đó, chớ không phải nho là Nho gia ").

4. Mười môn phái chính (thập gia) trong bách gia chư tử
Những phái riêng biệt trong Chư Tử, dưới thời Chiến quốc được phân chia ra làm 5, đến cuối đời Tây Hán (206 trước T.L.) thì tăng lên đến 10.

Trong số các môn phái, chỉ có Nho gia và Mặc gia là thành lập trước hơn hết, cho đến cuối đời Tây Hán, các môn phái mới lần lần xuất hiện cho đến số 10.

Tên gọi của 10 môn phái nầy là do người đời sau đặt cho đúng với ý nghĩa của học thuyết từng môn phái :

Xin liệt kê ra sau tất cả số 10 môn phái :

1. Nho gia

Trong sách thuyết văn giải tự có viết : " Nho là nhu " (dịu hiền) đó là tên gọi của thuật sĩ, như vậy là chữ Nho có đến hai nghĩa " dịu hiền " và " cần thiết".

Trong sách Hán thơ, thiên Tư Mã Tương Như truyện chú có viết : " Người có đạo thuật đều là Nho ". Lời giải thích nầy hợp với Thuyết văn giải tự. Nho là tên gọi thông thường của những học giả.

Trong sách Sử Ký, phần Mạnh Tuân liệt truyện có viết : " Những Nho sĩ tầm thường như Trang Chu, v.v...Trang Chu vốn là Đạo gia, nhưng lại gọi là Nho sĩ, chỉ với ý học giả ".

Trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử bảo Tử Hạ : " Người hãy làm quân tử Nho, đừng làm tiểu nhơn Nho " cũng với ý trên.

Thuở ấy, những người có học thức, đạo học đều được gọi là Nho, bất câu quân tử hay tiểu nhơn.

Nho là tên gọi thường của học giả, nhưng tại sao môn đệ của Khổng Tử mới được gọi là Nho gia ?

Trong sách Chu Lễ có viết : "Nho là người có đạo thuật để dạy người ". Người có học thức và đạo thuật, và lại dạy người khác gọi là Nho, như thế Nho, cũng như ngày nay ta gọi là Nhà giáo dục vậy. Đó là nghĩa nới rộng của chữ Nho.

Trước thời Khổng Tử, chỉ có Quan học, không có thầy tư nhơn, tư nhơn lập trường dạy học trò đầu tiên là Khổng Tử.

Kế đó là các học trò của ông như : Tử Hạ, Tử Du, Tăng Tử, v.v... đều có dạy học trò, cho nên đều được gọi là Nho, rồi sau đó lần lần thành thói quen và thành Nho gia, tên gọi của học phái.

Trong sách Pháp môn của Dương Hùng ở thiên Quân tử có viết : " Người thông thiên địa gọi là Nho ".

Trong sách Luận Hoành của Vương Sung, thiên Siêu Kỳ có viết : "  Người có thể giảng được một kinh gọi là Nho ".

2. Đạo gia

" Đạo gia " tức là tên gọi rút ngắn của từ ngữ Đạo đức gia. Sách Hán chí gọi Đạo gia, nhưng Tư mã Đàm lại gọi là Đạo đức gia.

Đạo đức, Âm dương, Tung hoành là những học phái được gọi tên bằng hai chữ.

Sở dĩ học phái nầy được gọi là Đạo đức gia là vì quan niệm căn bản của phái nầy là đạo đức.

Trong thiên trên của sách Lão Tử có viết : " Đức lớn dung chứa, là Đạo theo liền đó... ", trong thiên dưới cũng có viết : " Đạo sanh đó, đức nuôi đó, vật thành hình đó, thế làm nên đó, thế cho nên vạn vật không ai không tôn đạo và quí đức. Cái tôn của đạo, cái quí của đức không gì hay bằng cứ để cho nó thường tự nhiên ".

Trong thiên Tâm thuật, Quản Tử cũng có viết : " Đức là chỗ chứa của đạo, sự vật nhờ đó mà sanh, cho nên có đức là được tất cả ".

Nếu biết dùng cái vô vi làm đạo, kể như không chú ý mà làm đức (cứ để cho tự nhiên) giữa đạo và đức không có khoảng cách, đó là thi hành đúng với đạo đức vậy.

Lão Tử và Quản Tử, tuy do người đời sau gom góp tài liệu, lời nói lại thành sách, nhưng cũng giữ được cái tinh nghĩa của Đạo gia.

Trong thiên Thiên địa, Trang Tử có viết : " Đức kiêm với đạo và đạo kiêm với đức " và " Thái sơ có và không, không và có là vô danh...bắt đầu từ một, có một mà chưa thành hình, vật nhờ đó sanh ra, đó là Đức ".

Lão Tử cũng thường nói : " Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật " tức Trang Tử gọi cái không của Thái sơ, tuy có mà chưa thành hình, đó là bắt đầu từ một và đó là Đạo.

Đạo là đạo tự nhiên của trời, đất, là tổng nguyên lý sanh ra vạn vật. Còn Đức là vật nhờ Đạo ấy mà thành hình, cũng tức là nguyên lý sanh ra vật ấy.

Đạo là cái " một " sơ khởi, cho nên mới nói Đạo sanh một rồi một sanh hai, sanh ba và sanh ra vạn vật.

Vật mà sanh ra được, là nhờ có Đạo, cho nên mới nói : Vật mà nhờ đó sanh ra gọi là Đức.

Vật sanh mà Đạo gắn với liền với vật, thế cho nên mới nói Đức là " nhà " ở của Đạo.

Đạo là tổng nguyên lý của sự sanh ra vạn vật, còn Đức là nguyên lý riêng biệt để sanh ra vật ấy.

Đạo và Đức tuy hai mà một, cho nên mới nói " Đức gồm trong Đạo, và Đạo gồm trong Đức ". Đạo và Đức không có khoảng cách cho nên nói Đạo và Đức là luôn luôn phải dính liền nhau.

Đức cũng là một bộ phận của Đạo cho nên mới có câu : " Tư dung của Khổng Tử là có Đạo trong ấy rồi ". Vì thế cho nên vạn vật, không có gì mà không tôn Đạo và quí Đức !...

Cái tôn của Đạo Đức, không phải gò ép mà tự nhiên thường có. Vũ trụ luận của học phái nầy là quan niệm căn bản, thế cho nên mới gọi là Đạo đức gia, đó là chỗ tóm lược trọng yếu.

Một số người cho rằng câu đầu tiên trong thiên trên của sách Lão Tử : " Đạo khả đạo, phi thường đạo ", và kế đó trong thiên dưới có câu : " Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức ", vì hai câu đó, nên mới đặt tên cho quyển sách của Lão Tử là Đạo đức kinh.

Lão Tử là người khai sáng phái " Đạo gia ", tức là nhơn quyển Đạo đức kinh mà đặt ra danh hiệu đó. Hai thuyết kể trên đều không đúng.

Trong Thập Gia Chư Tử, không có ai dùng tên sách để đặt tên môn phái, tự nhiên Đạo gia cũng không thoát ra ngoài thông lệ ấy.

Hơn nữa, Lão Tử là một nhân vật truyền thuyết, chưa chắc là đã có thật.

Quyển Lão Tử là do người đời sau gom góp lại. Dưới thời Tây Hán, Lão Tử rất được tôn sùng, nhưng lại gọi chung ông với Hoàng Đế (Hoàng Lão).

Hoàng Đế là người sanh trước Lão Tử, nên không thể ghép chung tên để gọi một học phái được.

3. Mặc gia

Người khai sáng Mặc gia là Mặc Định, cho nên mới dùng họ Mặc đặt tên cho học phái gọi là Mặc gia.

Trong Chư Tử, 9 học phái khác đều không dùng họ của người khai sáng để đặt tên học phái, tại sao Mặc gia lại ở trong trường hợp khác biệt như thế ?

Thật ra, Mặc Tử không phải là họ Mặc. Gần đây, một nhà học giả là Giang Tuyền đã chứng minh điều đó trong quyển sách khảo về Chư Tử của ông, nhưng sở dĩ dùng chữ Mặc là có những ý nghĩa sau đây :

a) " Mặc " là một hình phạt trong " ngũ hình " của thời xưa, người bị hình phạt nầy bị đày đọa đưa đi làm những việc nặng nhọc.

Mặc Tử sanh ở nước Lỗ, lúc Nho gia đang toàn thịnh, ông chủ trương tiết dụng (kiệm) phi nhạc (không cần nhạc) tiết táng (giản dị trong việc chôn cất) tiết tang (giản dị trong tang lễ), đó là những chủ trương khác hẳn với thời xưa.

Ông chủ trương lao khổ, thậm chí đến mức xương không còn thịt, ống chân nhẵn không còn sợi lông vì làm việc quá nhiều.

Ông khác hẵn với các nho sĩ ăn mặc xênh xang, mũ mãng chỉnh tề, không làm việc động đến móng tay, cho nên người thời ấy xem ông như là một tên tội khổ sai.

b) Chữ Mặc cũng có nghĩa là " mực ". Mặc Tử chủ trương chịu lao khổ, tấm thân dầm sương dãi nắng, đội nguyệt, mang sao, thân hình đen đúa, gầy ốm như cây khô, số môn đệ ông cũng đều như thế, cho nên Tuân Tử thường bảo : " Tích Mặc " là lão " Mặc ốm " để chỉ sự sống khắc khổ của Mặc Tử.

c) Chữ " Mặc " cũng có nghĩa là " Mẫu mực " (thằng mặc). Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử luận về Mặc Tử có viết " Lấy mẫu mực để chỉnh đốn mình ". " Mặc Tử lúc sống không ca hát, lúc chết không tang phục, chỉ dùng quan nhỏ mà không có quách bên ngoài, đó là phép tắc của phái ấy ".

" Người đời nay theo Mặc Tử, dùng vải xấu làm y phục, ngày đêm không nghỉ, tự lao khổ, và cho rằng nếu không như thế thì không theo đúng đạo của vua Võ, và cũng không theo phái Mặc được ".

Mặc Tử đã dùng phương thức sống khổ, luôn luôn đúng theo mẫu mực, người lúc ấy nhìn thấy Mặc Tử và đồ đệ sống khác với người thường, mà chữ " Mặc " lại có nghĩa là bị phạt làm việc nặng nề, người ốm o gầy mòn, thế nên dùng chữ Mặc để gọi Mặc Tử với ý nghĩa châm biếm. Còn Mặc Tử với đồ dệ lại nghĩ rằng chữ Mặc có ý nghĩa là " mẫu mực " đủ nêu lên qui luật sanh hoạt khắc khổ của phái mình vì đó mà thừa nhận chữ " Mặc ", vì thế mà học phái ấy được gọi là Mặc gia luôn. (Xin xem thêm Mặc Tử của Tiền Mục và trong quyển Trung quốc Triết học sử của Phùng Hữu Lan).

4. Danh gia

Công tôn Long nói : " Danh là tên gọi của thực ". Thực là sự vật, còn danh là tên gọi của sự vật ấy, danh và thực phù hợp nhau thì là danh chánh và thực không phù hợp nhau thì danh bất chánh. Vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con (không làm tròn nhiệm vụ), thì danh và thực không phù hợp nhau.

Củ chính cái danh không đúng với thực, làm cho danh và thực phù hợp nhau đó là Chính danh. Danh và thực phù hợp nhau thì " danh định mà thực rõ ràng ", tự nhiên danh nổi tiếng và thực thu hút được người.

Cho nên bản nghĩa của danh chỉ là cái tên của sự vật đó, là từ ngữ thực thể, nói rộng ra, phàm các từ ngữ về hình thức động tác, vị trí, tính chất, số lượng cũng đều có đại biểu cho cái thực, đó cũng gọi là danh, cũng phải cần có phù hợp với sự thật.

Điều nầy tức là trong thiên Tiểu thủ của Mặc Tử đã nói " Lất từ trữ ý ", hay là dùng từ để biểu thị ý nghĩa.

Phàm dùng ngôn ngữ hay văn tự để biểu lộ ý thì phải dùng " từ ", mà từ thì phải dùng cho đúng với sự thật, đó là " Danh học ". Tính chất của học phái nầy cũng giống như thuyết " Nhơn minh " của nhà Phật, và " logique " của phương Tây.

Công tôn Long có nói : " Công tôn Long ghét danh và thực bị rối loạn, thế cho nên muốn suy biện để chính danh và thực để thay đổi thiên hạ ". YÙ của ông là như thế nầy : " Tôi đâu có phải là kẻ thích biện luận. Tôi chỉ muốn biện chính cái danh và thực bị rối loạn mà thôi... ", vì thế nên mới gọi học phái này là Danh gia.

Mặc Tử cũng có Kinh thuyết và Tuân Tử cũng có thiên Chính danh, như thế chúng ta thấy Danh học rất cần thiết và được nhiều học phái chú ý. Thuở ấy " Biện sĩ " (kẻ hay biện luận) cũng thường gọi là Danh gia, nhưng những nhà chuyên môn biện luận chỉ hay giỏi tài ăn nói mà không thấy đưa ra được học thuyết nào vững vàng.

5. Pháp gia

Hàn Phi có viết " Phép tắc, biên vào sách vở, để ở quan phủ và ban bố ra bá tánh ". Pháp đây là chỉ Pháp luật, chánh lịnh.

Trong sách Luận Ngữ, thiên Vi chánh có ghi lời Khổng Tử : " Dìu dắt dùng chánh, trị dùng hình, dân khỏi tội mà không biết sỉ nhục. Dìu dắt dùng đức, trị dùng lễ, thì biết sỉ nhục và thông đạt ".

Nho gia chủ trương dùng Đức, Lễ để trị (nặng về giáo dục) cho nên mới có lập luận như thế.

Còn Pháp gia thì phản đối thuyết của Nho gia, cứ chủ trương cầm Pháp luật mà trị.

Quản Tử có nói : " Vua tôi, trên dưới, sang hèn, đều tuân theo Pháp luật, đó là đại trị ". Ông cũng nói : " Cho nên Pháp luật là đạo cao trong thiên hạ, là điều thực dụng cho Thánh quân ".

Học phái nầy xem ra rất trọng Pháp luật, cho nên gọi là Pháp gia.

6. Âm dương gia

Sở trường của Âm dương gia là sao và lịch, trong phần trước đã có đề cập đến.

Trong thiên Tứ thời, Quản Tử có viết : " Âm dương là cái lý lớn của trời đất ". Tất cả tinh trượng, tứ thời, đều do cái âm dương của trời đất là chủ.

Sách Sử Ký có viết : " Dưới thời Uy và Tuyên của nước Tề, môn đệ của Trâu Tử luận trứ sự chuyển vận chung thủy của Ngũ đức ".

Trong sách Văn Truyển, Cố an Long dẫn lời văn trong Chiêu vương bi có viết : " Ngũ đức có gì hơn : Ngu thổ, Hạ mộc, Ân kim, Châu hỏa ".

Theo thuyết Ngũ hành tương khắc, thì mộc khắc thổ, kim khắc mộc, cho nên nhà Hạ thay nhà Ngu, nhà Ân thay nhà Hạ, nhà Châu thay nhà Ân...

Nhưng thủy cũng khắc hỏa, thổ cũng khắc thủy, cho nên vận hành của Ngũ đức là hết rồi trở lại đầu, đó là luật " Chung thủy Ngũ đức chi vận ".

Trong sách Sử Ký, thiên Mạnh Tuân liệt truyện có viết : " Trâu Viễn dùng cái chủ vận của Ngũ đức làm sáng tỏ với Chư hầu ". Cái vận hành của Ngũ đức : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ cũng do Âm dương làm chủ, cho nên quan sát tin âm dương là có thể biết cái vận hành Chung thủy của Ngũ đức.

Phái Âm dương lấy cái vận hành âm dương của sao, lịch và ngũ đức làm chủ, như thế chúng ta đã thấy rõ cái quan niệm căn bổn của phái ấy là âm dương rồi. Như vậy mới gọi là Âm dương gia.

7. Tung hoành gia

Từ Nam đến Bắc gọi là tung (dọc), từ Đông sang Tây gọi là hoành (ngang).

Dưới thời Chiến quốc, nước Tần ở phương Tây rất mạnh, các chánh khách thời ấy áp dụng hai sách lược ngoại giao. Tô Tần chủ trương 6 nước Nam, Bắc liên hợp để chống với Tần ở phương Tây, đó là hợp tung.

Trương Nghi lại chủ trương lục quốc nên hướng về phía Tây liên lạc với Tần, đó là kế hoạch liên hoành.

Lúc ấy kẻ đi du thuyết, không phải chỉ có Tô Tần, Trương Nghi mà thôi, nhưng sách lược của tất cả những người ấy, đều không ngoài hai chủ trương hợp tung và liên hoành, vì thế mới gọi là Tung hoành gia.

8. Tạp gia

Tạp gia trích dụng học thuyết của các phái khác, cho nên mới gọi là " Tạp ". Sách Hán Chí ghi những sách của Tạp gia, cho rằng Lã thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử là tiêu biểu hơn hết. Hai quyển sách này do môn khách viết ra, mà không phải do tự tay sáng tác của Lã bất Vi và Lưu An.

Tác giả những cuốn sách ấy không phải một người, mà là nhiều người ; mặc dù thế, những người viết ấy, cũng đều là những người có tài. Chữ " tạp " có ý nghĩa xấu, dùng ở đây thấy không được ổn lắm.

9. Nông gia

Hứa Hành chủ trương " vua tôi cùng đi cày " loại trừ giai tầng thống trị và bị trị, ý nghĩa cũng có chỗ độc đáo, học thuyết ấy từ Đạo gia mà ra, nhưng lại gán lời cho đó là của Thần nông. Các sách về Nông gia ghi trong sách Hán Chí, đều là những sách nói về cách làm ruộng, trồng dâu, trồng cây.

10. Tiểu thuyết gia

Sách Hán Chí viết : " 10 học phái trong Chư Tử, chỉ có 9 nhà là đáng kể ", là vì người ta cho rằng Tiểu thuyết gia là những kẻ " đạo thính, đồ thuyết ", là những kẻ hiểu biết tầm thường vụn vặt, không đi đến một kết quả nào, cho nên không đáng kể. Vì thế cho nên mới gọi tên là " Tiểu thuyết ".

Những quyển sách của Tiểu thuyết gia có ghi tên trong pho sách Hán Chí đều bị thất lạc tất cả. Căn cứ theo tên sách mà tìm hiểu, thì đó là những loại sách Ngoại truyện, Bút ký...các loại sáng tác lặt vặt.

Về môn phái nầy, ngoài Tống Tử ra, thì không còn ai đáng kể.

Có lẽ từ ngữ Tiểu thuyết của chúng ta đang dùng hiện nay là xuất phát từ đây.

 
5. - Sở trường và sở đoản của mười môn phái
Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử đã phê bình học thuyết của Chư Tử, nhưng trừ Quan Doãn, Lão Đam và Trang Chu, vì đó là người của môn phái mình.

Trang Tử đã nói mỗi phái đều có sở trường và sở đoản. Ông phê phán Mặc Địch và Cầm hoạt Ly là học theo Đạo thuật đời xưa mà " không xa xí cho người đời sau, không khuất phục vạn vật, sống theo mẫu mực để chuẩn bị cho những cơn đói rét, thiếu thốn ". Đó là chỗ đáng khen.

Nhưng Mặc Tử đã thái quá, chí nhục, quá tiết kiệm, bỏ cả lễ nhạc thời xưa, lúc sống không ca hát, lúc chết không tang phục, tẩn liệm không quách mà chỉ có quan, bắt người phải theo như thế, e rằng chẳng biết thương người, mà chính mình cũng làm như thế là chẳng biết thương mình.

Khi còn sống cần cù làm việc, đến lúc chết tang lễ sơ sài, như thế làm cho người lo lắng, buồn rầu, cái hạnh như thế rất khó làm theo, e rằng không thể làm cái đạo của bực thánh nhân được.

Trái với lòng thiên hạ, thiên hạ không chịu đựng được, tuy một mình Mặc Tử có thể làm được việc đó, nhưng còn thiên hạ thì sao ? Đã xa rời thiên hạ thì làm sao đến bực vương giả cho được ? Thế nên ý của Mặc Địch và Cầm hoạt Ly thật là đúng, nhưng đến việc làm thì lại sai.

Giả sử như môn đệ của Mặc Tử áp dụng đúng chủ trương chịu đựng gian khổâ như thế, thì sẽ gây ra rối loạn v.v...Đó là lời phê bình của Trang Tử đối với Mặc gia.

Nhưng rồi ông lại viết tiếp : " Tuy nhiên, dù sao Mặc Tử cũng là người tốt trong thiên hạ, tìm được một người như thế không phải dễ. Chịu đựng được gian khổ, đó mới đúng là bực sĩ phu !

Người có tinh thần như thế, thật khó mà theo kịp ".

Phê bình Tống Hình và Doãn Văn, Trang Tử lại viết : " Truyền bá đạo thuật thời xưa mà không tục, không bị dính líu với hình thức bên ngoài, không gượng ép người, muốn cho thiên hạ bình yên, người và ta đều trọn vẹn ".

Trang Tử đã khen hai người kể trên : Hai người sừng sững như Họa sơn và người đầu tiên tiếp và dưỡng nuôi vạn vật, làm cho lòng người sáng tỏ.

Thi hành đúng với cái tâm, để điều hòa khắp nước, xứng đáng làm chủ trong thiên hạ. Được như thế thì cứu dân khỏi cảnh xung đột, ngăn chỉ việc đao binh, cứu đời khỏi vòng chinh chiến. Nếu thuyết ấy được lan khắp thiên hạ, thì trên vui mà dưới được thuận thảo. Nhưng chỗ sở đoản là làm cho người quá nhiều, còn làm cho mình thì quá ít, nhưng cũng có thể nói đó là bực sĩ phu cứu đời.

Bình luận về Bành Mông, Điền Biền và Thận Đáo, Trang Tử viết : " Phổ biến đạo thuật đời xưa, công bình mà không thiên vị, không tự tư, tự lợi, không tính toán, không phân biệt ".

Trang Tử đã khen những người trên : " Biết cái giá trị của vạn vật, biết vạn vật chỗ nào được, chỗ nào không, khoáng đạt, bỏ cá nhân mình...đứng lên bên trên thị phi, không quá tính toán, không quá dè dặt, suy nghĩ rồi hành động, việc gì cũng khiêm nhượng sau người, cho đến mức như là vô tri. Đó là đạt đến chỗ gọi là " Đạo " mà như chẳng phải " Đạo " (tự nhiên không gượng ép) có khi lời nói như là không đúng, như là không biết, nhưng thật ra là người hiểu biết. "

Phê phán Huệ Thi, Trang Tử cho rằng : " Sách ông có đến 5 xe, đạo ông nghịch thường, lời ông không đúng. "

Huệ Thi chỉ biết biện luận với người suốt ngày, là một người kỳ quái trong các biện sĩ trong thiên hạ.

Huệ Thi nói khắp cả vạn vật, nói mãi không thôi, nói nhiều không ngừng, mà cũng còn cho là ít, muốn có danh hơn người, vì thế mà không thích hợp với người.

Từ cái đạo của trời đất mà xem tài của Huệ Thi thì thấy nhỏ như muỗi, ruồi vậy.

Rất tiếc cho cái tài của Huệ Thi, cứ chạy mãi mà chẳng đến đâu, ảnh ngã phía trước, hình đuổi phía sau, mà chẳng bao giờ đến cả.

Trở lên, Trang Tử phê phán 6 Chư Tử, ai ai cũng có khuyết điểm, nhưng về Quan Doãn và Lão Đam thì không có lời gì phê phán khuyết điểm mà chỉ nói : " Quan Doãn và Lão Đam phổ biến đạo thuật đời xưa, lấy cái gốc làm tinh vi, lấy vật bên ngoài làm thô, chứa đựng mãi mà không đủ, có thể sánh với thần minh. "

Trang Tử đã khen hai người ấy : " Xây dựng cái thường trên cái có và không, chủ trương " thứ nhứt ", lấy khiêm nhượng biểu lộ bên ngoài, lấy không hư, không làm hại vạn vật làm thật, người người ai cũng giành trước, người ấy chỉ muốn sau, ai cũng muốn đầy, người ấy chỉ muốn trống, ai cũng muốn cầu phước, người ấy chỉ muốn vừa được thì thôi, người ấy chỉ muốn rộng rãi với sự vật, chẳng muốn hơn người.

Cái đạo như thế là " cùng tột " cho nên có thể bảo rằng : Quan Doãn và Lão Đam là người " bác đại, chân chân " của thời xưa vậy... "

Đối với Trang Châu thì sách Trang Tử cũng rất sùng bái gọi là phổ biến đạo thuật thời xưa : " Phiêu diêu như vô hình biến hoá vô thường, sánh cùng trời đất, đến với thần minh, minh mông mà đi, bỗng nhiên mà đến, trùm lên vạn vật, không đủ chỗ để về ở... "

Trang Tử đã khen những người ấy : " Dùng thuyết như sai lầm, lời nói hoang đường, từ ngữ bao la, khoáng đạt mà không thiên với ai, không nên lấy đó làm kỳ, vì thiên hạ ô trược không thể cùng nói với Trang được, phải dùng lời nói bao la, nặng nề để đến chân lý, dùng ngụ ngôn để mở rộng, để đến với tinh thần trời đất, mà không ngạo nghễ với vạn vật, không vướng với thị phi, để cùng ở với thế tục.

Quyển sách của người ấy thật hoàn toàn không vết tích, ngôn từ thì lủng củng mà quái dị, nhưng lại đầy đủ mà không ngừng. Trên thì cùng đùa với vạn vật, mà dưới thì bạn với cái không chung, khôg thủy, không sanh, không tử. Căn bổn của người ấy rộng lớn mà lại còn mở rộng thêm, sâu sắc mà còn sâu hơn nữa.

Tông chỉ của người ấy rộng khắp mà hướng lên, tuy hóa với vật, hiểu sâu sắc với vật mà lý không bao giờ cạn.

Có người nghi rằng thiên nầy không phải do Trang Tử viết mà là môn đệ của ông, sau khi gom góp tài liệu của Trang Tử thành sách rồi viết một bài tựa, cho nên mới tôn sùng đề cao Trang Tử đến mức ấy.

Thiên Thiên hạ phê phán Chư Tử, tất cả đời sau đều làm tài liệu căn cứ, mà không kể ai thuộc môn phái nào.

Trong thiên Phi thập nhị tử của Tuân Tử cũng y như vậy, thiên nầy bài bác Thập nhị tử, cho nên chỉ ghi những sở đoản, mà không nêu lên những sở trường, cho nên đối với Đà Hào, Ngụy Mâu mới viết : " Buông lung tánh tình, hành động theo tánh tự nhiên của loài cầm thú, không thể hợp với văn minh. "

Đối với Trần Trọng, Sử Du thì viết : " Nhẫn tánh tình, tìm kẻ hở, để cho mình cao hơn người, thì không thể hợp với đại chúng ".

Về Thận Đáo và Điền Biền thì viết : " Thích pháp luật mà không tuân pháp luật, kẻ không thích pháp luật mà làm đúng, trên chỉ nghe theo lời trên, dưới thì thi hành theo thời thế, ngày ngày lời nói nghe rất mẫu mực, nhưng khi xét kỹ lại thì chẳng đúng vào đâu cả, như thế đâu có thể trị quốc gia được. "

Về Tử Tư và Mạnh Kha thì viết : " Biết qua về phép tiên vương nhưng không biết hệ thống lại, mà muốn có tài, chí lớn, kiến thức rộng mà lộn xộn, noi theo xưa mà tạo thuyết mới, gọi đó là năm hạnh (nhơn, nghĩa, lễ trí, tín) không ăn nhằm vào đâu cả, có nhưng điều tối tăm mà không mở ra ". Đây là những thành kiến rất sâu, không phải là những lời phê phán bình tĩnh khách quan.

Trong phần Tự tự của quyển Sử Ký, có dẫn lời của Tư mã Đàm, luận về ý nghĩa chủ yếu của 6 môn phái, trước hết nêu tên môn phái, rồi phê phán chỗ sở trường, sở đoản và sau cùng nêu tên người đại biểu cho môn phái ấy.

Lối viết như sau : " Thường nghe nói hễ xem thuật Âm dương quá tinh tế, thì mọi người đều e dè, làm cho người bị ràng buộc ở chỗ lo sợ, nhưng về việc ghi bốn mùa thuận lợi, thì việc đó không thể thiếu được.

Kẻ theo đạo Nho, học rộng mà không tóm lược, làm việc nhiều nhọc mệt mà kết quả ít, là vì lý thuyết khó noi theo, nhưng cái lễ thứ lớp trong đạo quân thần, phụ tử, phân chia ngăn nắp việc vợ chồng, kẻ lớn, người nhỏ, thì những điều ấy không thể thay đổi được.

Còn về Mặc gia thì rất khó theo, là vì việc làm của ông không thể làm theo hết được, nhưng thuyết làm cho mạnh gốc rễ, vốn liếng, tiết kiệm, thì không thể bỏ qua được.

Về Pháp gia thì nghiêm mà thiếu ơn đức, nhưng việc chánh danh phận quân thần trên dưới, thì không thể sửa đổi được.

Về Danh gia thì làm cho người tự xét mình, mà có khi đi đến chỗ mất chân chính, nhưng thuyết chính danh, thực, thì cần phải chú ý.

Đạo gia thì làm cho tinh thần người chuyên nhứt, hành động hợp với vô hình, đầy đủ với vạn vật, thuật của phái nầy là nương theo cái thuận lớn của Âm dương, trích lấy cái hay của Nho, Mặc, nắm yếu chỉ của Danh gia, Pháp gia...cùng mùa tiết thay đổi, nương theo vật mà biến hóa, theo thói đời mà hành động, không chỗ nào mà không hợp, chỉ dẫn chỗ trọng yếu cho dễ nắm, thì việc làm ít mà kết quả nhiều.

Phái Nho thì không như thế, họ cho rằng làm người chủ trong thiên hạ phải có nghi biểu bên ngoài, chúa xướng thì tôi phải theo, chúa làm trước thì tôi phải theo sau, như thế thì chúa nhọc mệt, mà tôi thì nhàn hạ. Còn chỗ trọng yếu của đại đạo thì phải cố gắng về vật chất lẫn tinh thần, nhưng tinh thần dùng quá nhiều thì khô cạn, sức dùng quá nhiều thì hình mỏi mệt, tinh thần và vật chất bị rối loạn, mà muốn lâu dài với trời đất, thì chưa nghe có ai được như vậy.

Theo Tư mã Đàm, thì trong mỗi Môn phái đều có sở trường, sở đoản, duy chỉ có Đạo gia hoàn toàn không có sở đoản.

Đến phần cuối, ông lại so sánh Đạo gia với Nho gia, cho chúng ta thấy Nho gia không thể nào sánh được với Đạo gia.

Trong phần Tự tự có viết Tư mã Đàm thường học Đạo luận với Hoàng Lão, thế nên đặc biệt mới suy tôn Đạo gia đến mức ấy.

Dưới thời Hán sơ, các bậc Đế vương như Văn Đế, danh tướng như Tào Tham, đều thích Đạo gia, Cảnh Đế tuy thích Danh gia, nhưng Đậu thái hậu lại tin Hoàng Lão, Thân Công vì chê Hoàng Lão mà đắc tội với thái hậu.

Dưới thời Cảnh Đế, Văn Đế, có phong trào sùng thượng Đạo gia mạnh mẽ, Tư mã Đàm sanh vào thời kỳ ấy, lại có nhiều sở đắc ở Đạo luận, cho nên ông mới khen Đạo gia như thế.

Nhưng ông viết về thuật của Đạo gia : " Nhơn đại thuận của Âm dương, trích cái hay của Nho, Mặc, nắm chỗ trọng yếu của Danh, Pháp gia ". Điều nầy có chỗ không đúng với sự thật vì dưới thời Tây Hán, khi nói đến Đạo gia, gọi là Hoàng Lão mà không nói Lão, Trang...

Hơn nữa, Lão Tử là tiền bối của Khổng Tử, lúc Khổng Tử đến gặp Lão Tử thì chưa sáng lập học phái, và Mặc Tử thì lại sanh sau Khổng Tử, không có cơ hội để gặp Lão Tử, hai phái Danh gia và Pháp gia lại thành lập vào lúc giữa thời Chiến Quốc, thì Lão Tử đâu có thể trích cái hay của Nho, Mặc, lấy cái trọng yếu của Danh và Pháp gia cho được ?

Hoài Nam Tử tên là Hoài Nam Hồng Liệt, Hồng là lớn, Liệt là sáng láng, ý muốn nói là làm sáng tỏ cái đạo.

Quyển sách nầy là do môn khách của Hoài Nam Vương Lưu An viết, trích các thuyết của các Môn phái Âm dương, Nho, Mặc, Danh, Pháp...biên soạn lại, mà ý thích thì thiên về Đạo gia.

Có lẽ dưới thời Tây Hán, người ta quan niệm Đạo gia theo sách Hoài Nam Tử, nên Tư mã Đàm mới viết như thế chăng.

Xét thêm ý trong sách Sử Ký thì thấy : " Nho gia quá rộng, mà không tóm lại được chỗ trọng yếu, nhọc công nhiều mà ít kết quả ". " Nho gia lấy Lục Nghệ làm phép tắc, về Lục Nghệ thì Kinh truyện có đến hằng ngàn, học suốt cả đời cũng chưa chắc là thông được, riêng về phần Lễ, học cả năm chưa xong ".

Xem qua lời phê phán trên, chúng ta thấy dưới thời Tây Hán, qua các sách vở được ghi chép lúc đó, chưa biểu hiệu được chân tướng các phái. Sở trường của Nho gia không phải chỉ ở phần Lễ, Mặc gia không chỉ ở Tiết dụng, Pháp gia không chỉ ở chỗ phân biệt quân thần, thượng hạ.

Vì các môn phái chưa phát triển đúng mức chân tướng của mình, có thể vì thế mà lời bình luận của Tư mã Đàm, không nêu lên được những điểm trọng yếu.

Trong phần Chư tử lược của sách Hán Chí, sau khi ghi chép xong sách của một Môn phái, liền ghi thêm lời tựa lên trên và sau cùng phê phán chỗ sở trường, sở đoản của từng Môn phái.

Phê phán Nho gia, sách Hán Chí đã viết : " Phái Nho gia, xuất thân từ nhà quan, nên giúp đỡ nhà vua thuận lẽ âm dương làm sáng tỏ giáo hóa, dẫn lời trong Lục Nghệ, và chú ý đến việc nhơn nghĩa, noi theo nền văn hiến, phép tắc của Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ, tôn thờ thầy Trọng Ni, nên nền đạo rất cao ".

Khổng Tử có nói : " Nếu như có chỗ đáng khen, thì phải thí nghiệm thử ". Cái tiếng của Đường, Ngu, cái thạnh của Ân, Chu, Trọng Ni đã thí nghiệm. Cũng có thể bị mất cái tinh vi, và xa rời cái gốc đạo mà Nho học bị suy vi.

Ban Cố thì cho rằng, những lời phê phán trên là để phê bình lớp hậu Nho không còn giữ được tinh túy của đạo như nhóm Công tôn Hoằng, đó là cái tệ của một lớp người, của một giai đoạn, không thể lấy đó mà phê phán học thuyết được.

Phê phán Đạo gia, Tư mã Đàm viết : " Phái Đạo gia, xuất thân từ Sử quan, biết rõ cái đạo thành bại, tồn vong, họa phước, rồi sau đó biết chỗ trọng yếu nắm chắc căn bản, trong sạch, khiêm nhượng giữ mình, nhỏ nhoi, thấp kém, đó là cái thuật của vì nhơn quân ngồi day mặt về phía Nam...(ngồi theo vị trí của vua) hợp với lòng khắc nhượng của vua Nghiêu.

Trong Kinh Dịch có chữ Khiêm. Một Khiêm mà sanh ra bốn Ích, đó là chỗ sở trường. Nếu biết phát triển mà thi hành cho đúng, thì bỏ Lễ, Nhơn, Nghĩa, chỉ giữ trong sạch khiêm nhượng là có thể trị vì thiên hạ.

Dứt Lễ, bỏ Nhơn, Nghĩa, chỉ dùng trong sạch, khiêm nhượng để trị, Lão Tử đã có chủ trương như thế, chớ không phải từ chữ Khiêm trong Kinh Dịch phát triễn ra, chỗ nầy chắc có lẽ Ban Cố đã lầm.

Trong sách Hán Chí, ghi chép sách của Đạo gia, nhằm trước thời kỳ Lão Tử rất lâu, cho nên những người viết sách ấy cho rằng Đạo gia đã có từ trước thời Lão Tử.

Phê phán 3 Môn phái Âm dương, Pháp và Danh gia, sách Hán Chí viết : " Phái Âm dương gia ra từ quan chức của vua Hi, Hòa, kỉnh thuận trời đất, làm lịch ngày tháng trăng sao lập thì giờ cho dân, đó là sở trường của phái ấy, rồi có kẻ câu nệ, bày ra chuyện kiêng kị, số mạng, bỏ chuyện người mà cứ tin quỉ thần. Còn Pháp gia thì xuất thân từ Lý quan, có thưởng có phạt, để giúp cho Lễ chế.

Trong Kinh Dịch có viết : "Vì Tiên Vương trừng phạt rõ ràng để nêu Pháp luật... " đó là sở trường của Pháp gia. Nhưng nếu chỉ chú trọng hình phạt mà không giáo hóa, bỏ nhơn ngghĩa mà chuyên dùng hình pháp để trị, đến mức tàn hại thân tình, có hại đến ơn nghĩa.

Môn phái Danh gia thì phát xuất từ Lễ quan. Thời xưa danh vị bất đồng, Lễ cũng có thứ lớp khác nhau.

Khổng Tử có nói : " Tất là phải chánh danh, danh không chánh thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành. Đó là chỗ sở trường của phái Danh gia. Nhưng cũng có kẻ quỉ quyệt lạm dụng Môn phái, để làm rối loạn lòng người.

Ban Cố cho rằng Âm dương gia sở trường về lịch, thời tiết, mà có chỗ dở là bày ra kiêng kị (coi bói). Pháp gia thì dở ở chỗ khắc bạc, bại đến ơn nghĩa, Danh gia hay ở chỗ chánh danh, mà dở ở chỗ ngụy biện, cùng giống ý với Tư mã Đàm.

Duy ở chỗ bảo rằng " có thưởng có phạt " là chỗ hay của Pháp gia so với lời phê của Tư mã Đàm " Phân chia rõ quân thần, thượng hạ " thì thấy có phần gọn và sâu sắc hơn.

Dẫn tới chỗ dị đoan, hình phạt nghiêm, hại đến ơn nghĩa, biện luận quỉ quyệt, đó là chỗ dở của 3 Môn phái kể trên, nhưng nghĩ cho kỹ, không phải đó là cái dở của bản thân Môn phái ấy, vì theo Ban Cố, các nhà trong Môn phái ấy đều xuất thân từ vua, quan, nguồn gốc có từ lâu đời ; rồi đến thời Chiến Quốc, các môn đệ thời sau, làm mất cái bản sắc chân chính của Môn phái để đi lần đến chỗ sai lầm. Phải nghiõ như thế có lẽ đúng hơn.

Về phái Mặc gia thì có lời phê phán : " Phái Mặc gia xuất thân từ kẻ giữ Thanh miếu, ở nhà tranh vách đất, vì thế cho nên xem việc tiết kiệm làm đầu, mà cũng vì thế mà thương yêu mọi người, chuộng người tài, lo việc cúng kiến, thuận theo thời tiết bốn mùa làm lụng, không tin số mạng, dùng trung hiếu làm gương cho thiên hạ, thế cho nên trên dưới đồng nhau, đó là chỗ hay. Cho đến khi Môn phái suy đồi, thì tiết kiệm thành ra rít róng để lợi cho mình, vì đó mà mất cả lễ nghĩa, từ thuyết " kiêm ái " thương yêu mọi người mà đi đến chỗ không phân biệt thân sơ.

Quí việc tiết kiệm, kiêm ái, chuộng người hiền, thờ cúng người trước, không tin số mạng, trên dưới đồng nhau, sáu điểm ấy là chủ yếu của Mặc gia, nhưng không thể nói tất cả đó là điều hay.

Mặc Tử phản đối Nho gia là vì cái " Lễ phiền phức ", đó là điểm trước tiên, vì thế mà " chê cái Lễ phiền phức " là Mặc Tử đề cập trước nhứt.

Không phân biệt thân sơ, đó là kiêm ái, điều nhược điểm nầy đã có từ lúc đầu, chớ chẳng phải sau này, đến thời các môn đệ mới có.

Ban Cố cho rằng, trước thời Mặc Tử, đã có người xướng xuất ra học thuyết ấy rồi.

Trở lên việc phê phán 6 Môn phái, đều là ý của Tư mã Đàm, rồi chuyện tăng thêm 4 Môn phái : Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu thuyết gia, đều cũng có lời phê phán.

Ông đã viết : " Tung hoành gia là những người đi đó đi đây để làm quan ". Khổng Tử đã nói : " Đọc Kinh Thi 300 thiên, mà không thể đối đáp được thì đọc nhiều làm gì ? " Lại có nói : " Ôi chuyện đi sứ ". Là ý muốn nói gặp tình hình phải biết đối phó cho hợp, chỉ lãnh sứ mạng tổng quát mà không chi tiết, đó là chỗ sở trường.

Những kẻ tà lãnh nhiệm vụ ấy, thì dối trá mà bỏ mất lòng tin.

Còn phái Tạp gia thì xuất thân từ Nghị quan, kiêm Nho, Mặc hợp với Danh, Pháp gia, biết quốc thể là như thế, làm quan ra vào với vua chúa, đó là chỗ sở trường, rồi sau đó, đến những người không vững vàng tiếp tục Môn phái ấy thì lần lần bị mất chính thống.

Phái Nông gia thì xuất thân từ Nông quan, gieo trăm giống, khuyến khích việc nông tang, để cho có cơm ăn, áo mặc, cho nên trong Bát chánh có nói : Một là ăn, hai là hàng hóa...Khổng Tử có nói : " Chỗ trọng là cái ăn của dân ", đó là chỗ sở trường của Nông gia, nhưng lần lần kẻ thiển cận, cho rằng bực vương giả không có gì đáng trọng, muốn cho vua dân cùng đi cày, làm rối loạn trật tự trên dưới ".

Phái Tiểu thuyết gia xuất thân từ Ty quan, chuyên về nghe ngóng nói đi...nói lại. Khổng Tử có nói : " Tuy đó là tiểu đạo, nhưng cũng có chỗ khả quan, có thể đến những chỗ xa xôi. (Xem thiên Tử Trương trong sách Luận Ngữ) đó là chỗ người quân tử không làm nhưng cũng không thể bỏ. Những cái hiểu biết ở trong xóm làng cũng cần phải ghi nhớ cho đừng quên.

Về từ ngữ Tung hoành, thì bắt đầu từ thời Tô Tần, TrươngNghi, đó là những người trí trá, mất tín nghĩa, là những người tà.

Ban Cố cho rằng Tung hoành gia là những nhà ngoại giao, cho nên mới dẫn lời Khổng Tử về chuyện học Kinh Thi để đối đáp với kẻ khác.

Quân thần cùng đi cày, là muốn bỏ giai tầng thống trị và bị trị, đó là chủ trương của Hứa Hành (xem thiên Đằng văn Công trong sách Mạnh Tử), đó là đặc điểm của phái Nông gia.

Ban Cố cho rằng đó là thuyết của kẻ tầm thường, thế nên trong sách Hán Chí chỉ ghi lại sách chuyên về nghề trồng trọt.

Còn về phái Tiểu thuyết gia thì chỉ được ở phần Phụ Lục cho nên không bình luận sở trường hay sở đoản của phái này, nhưng chỉ nêu ra ý kiến là không thể bỏ được.

Trong phần đầu của phiên Tổng luận này có viết : " Trong 10 Môn phái chỉ có 9 là khả quan " tức là không có phái Tiểu thuyết gia. Trong Tổng luận cũng có viết : " Nếu trau dồi được Lục Nghệ, và đọc lời của 9 Môn phái, bỏ chỗ dở, dùng chỗ hay thì có thể thông được cái chước muôn phương ".

Trong khi bình luận Chư Tử, Ban Cố đã thiên vị, là vì ông nhận Nho gia là " cái đạo rất cao ", lấy lời nói của Nho gia làm khuôn mẫu để bình luận các Môn phái.

Thiên Thiên hạ của Trang Tử, thiên Phi thập nhị tử của Tuân Tử, và Tư mã Đàm với Ban Cố phê phán sở trường và sở đoãn của Chư Tử, đều đã được dẫn thuật ở trên. Tóm lại, trong tất cả 10 Môn phái, 5 phái sau không bằng 5 phái trước.

Chỗ dở của Âm dương gia, không phải chỉ ở chỗ " kiêng kị mê tín " mà lại có nhiều chỗ kiêng cữ, cứ tin quỉ thần mà bỏ chuyện người, tức là chỗ sở trường về lịch, trăng sao đó là kỹ thuật chớ không phải học thuyết triết học.

Phái Tung hoành là sách lược của chánh khách thời Chiến Quốc, lại càng không có liên quan gì đến học thuật.

Sách Hán Chí dẫn lục sách của Nông gia, cũng chỉ là những sách về kỹ thuật trồng tỉa, và những chánh lịnh về nông nghiệp mà chẳng có học thuyết gì. Như thế, chủ trương của Hứa Hành chỉ tiếp tục các học thuyết của Đạo gia mà thôi.

Về phần Tiểu thuyết gia thì sách Hán Chí chỉ ghi những bút ký và tạp văn của người đời sau, không xứng đáng tiêu biểu cho ngành Tiểu thuyết. Đời nay, ngành Tiểu thuyết chỉ được xem là bộ môn Văn học, chớ không phải là Triết học.

Còn về Tạp gia, thì gom góp học thuyết các Môn phái khác, không có một tôn chỉ nhứt định như vậy là không có một bản sắc riêng cho mình.

Bây giờ lại đem Danh học so sánh với 5 Môn phái trên, thì Danh học là một loại biện chứng của Nho gia mà các Môn phái khác đều có áp dụng, vì thế Danh gia đều về du thuyết, thì không có một học thuyết đặc biệt gì.

Pháp gia thành lập sau, có quan hệ đến Đạo gia, Nho gia. Thận Đáo là một Pháp gia ở vào thời kỳ đầu của Môn phái, học thuyết ông là thuyết Hình, danh của Hoàng Lão.

Trong sách Sử Ký ghi Thận, Hàn và Lão, Trang đồng một truyện vì cho rằng học thuyết của các ông ấy đều gốc của Hoàng, Lão, mà Hàn Phi, Lý Tư là đệ tử của Tuân Tử, như thế thì Pháp gia do Đạo gia, Nho gia hợp lại mà biến thành, nhận xét như thế cũng hợp lý.

Tóm lại, trong số 5 Môn phái kể trên có thể nói chỉ có Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, tổng cộng 3 phái là có thể nói có những điểm nổi bật riêng biệt mà thôi.
 
 

6. - Nguyên nhân của sự hưng thạnh và suy vi của bách gia chư tử
Học thuyết của Chư Tử hưng thạnh vào cuối thời Xuân Thu (551 trước T.L.) cho đến thời Chiến Quốc thì phát triển rất mạnh, rồi đến thời Tây Hán (206 trước T.L.) thì suy vi lần lần. Sự hưng thạnh và suy vi ấy đều có nguyên nhân, xét về bản thân của các ngành học thuyết ấy, đó là " Nhơn ", mà xét về hoàn cảnh của thời ấy, đó là " Duyên ".

Sự vật phát sinh và tiêu diệt đều có cái " nhơn " nội tại, và cái " duyên " của ngoại giới (hoàn cảnh bên ngoài) ngành học thuật, tư tưởng, cũng không thoát khỏi thông lệ ấy.

Vì như loài cỏ cây, sở dĩ mọc mầm và lớn lên được, trước hết là nhờ hạt nẩy mầm, đó là cái " nhơn " nội tại, rồi kế đến là phải có đất nước, khí ấm mặt trời bên ngoài, tạo thành hoàn cảnh thuận tiện cho cái nhơn ấy nẩy nở và hoàn cảnh bên ngoài ấy gọi là " duyên ".

Sách Hán Thơ Nghệ văn Chí có viết : " Phái Nho gia, xuất thân từ quan Tư Đồ ". Phái Đạo gia xuất thân từ Sử quan ; phái Âm dương xuất thân từ quan Nghi, Hoà ; phái Pháp gia xuất thân từ Lý quan. Phái Danh gia xuất thân từ Lễ quan ; Mặc gia xuất thân từ chức quan giữ Thanh miếu ; Tung hoành gia xuất thân từ quan đi đó đi đây, Tạp gia xuất thân từ Nghị quan ; Nông gia xuất thân từ quan Nông tắc ; Tiểu thuyết gia thì xuất thân từ Ty quan, đó là thuyết Chư Tử xuất thân từ vua quan.

Hồ Thích có thuyết cho rằng Chư Tử không xuất thân từ vua quan, cho rằng sách Hán Chí nhận định sai, rồi Chương Bính Lân, Hồ Tiên Tiêu lại biện hộ cho sách Hán Chí.

Bình tâm mà xét, Hán Chí cứ cho rằng mỗi Chư Tử đều xuất thân từ một ngành quan lại, là một việc gượng ép. Như cho rằng Mặc gia xuất thân từ chức quan giữ Thanh miếu...cho rằng chủ trương tiết kiệm xuất phát từ hoàn cảnh nhà tranh vách đất, chuộng người hiền là do cách chọn hiền tài lúc ấy, và thờ kính tổ tiên là do việc cúng tế mà ra, v.v...Xét cho kỹ, nhận định như thế là cưỡng ép theo ý mình.

Chỗ phân biệt giữa các Môn phái, cho đến đời Tây Hán mới hoàn thành, mới xác định được một cách rõ ràng...rồi may mắn dưới thời cổ đại có 10 chức quan, cứ cho người của 10 Môn phái xuất thân từ đó, như thế là một điều nhận xét khá hời hợt.

Chức quan đâu phải có bấy nhiêu mà thôi, còn có Trủng Tể, Tông Bá, Tư Mã, Tư Khấu, Tư Không, v.v... tại sao các chức quan ấy lại không sản xuất ra một học phái nào cả ? Như thế chúng ta đã thấy rõ thuyết của Hán Chí là miễn cưỡng rồi.

Chương Bính Lân, căn cứ theo sách Lã thị Xuân Thu có viết câu " Lỗ Huệ Công hỏi việc lễ ở giao miếu... Hoàng Vương sai Sử giác đến... hậu duệ của ông nầy còn ở nước Lỗ, Mặc Tử có học... ". Như thế thì Mặc Tử xuất thân từ Thanh miếu cũng có thể là chuyện có thật, nhưng căn cứ vào đó để nói rằng nhờ đó mà mới có Mặc gia, thì e rằng không chắc.

Ngày xưa, chỉ có vua quan dạy học, chưa có thầy dạy tư, chưa có sách do tư nhân viết, đó là sự thật có chứng cớ.

Ở nước Trung Hoa, vào thời Thượng Cổ, từ đời nhà Ân trở về trước, đa số sử liệu đều không có gì là chắc chắn, nhưng nếu vì thế mà cho rằng từ thời nhà Ân trở về trước, không có văn hoá thì đó cũng là lời võ đoán.

Từ khi có sử trở về trước, cho tới lúc từ khi chưa có chữ, tất nhiên là đã có văn hoá. Từ thời Thượng Cổ đến đời nhà Châu, văn hoá Trung Hoa đã có một qui mô khá vững vàng.

Từ điển chương, chế độ, sử học, khoa học, nghệ thuật, đều có ở trong lớp quí tộc, và cũng tương đương phong phú. Cho nên Khổng Tử đã nói : " Nhà Châu đã noi gương hai đời trước nên văn vẻ sáng rỡ ! " (thiên Bát dật trong Luận Ngữ). Cái văn vẻ sáng rỡ dưới thời nhà Châu, đều nằm trong tầng lớp vua quan, đó là cái mầm cho học thuật của Chư Tử sau nầy, cho nên bảo rằng học thuyết của Chư Tử, xuất phát từ tầng lớp vua quan, thật ra cũng không có gì quá đáng, nhưng theo sách Hán Chí đã chép, mỗi Môn phái này đã xuất phát từ quan chức nọ, đó là điều không thật chính xác.

Ông Hồ Thích, trong quyển " Trung quốc cổ đại Triết học sử đại cương " đã viết : Lúc ấy nền chánh trị đã mờ mịt như thế, xã hội rối loạn như thế, giàu nghèo quá cách biệt

như thế, sự sống của dân chúng khổ sở như thế, trước những tình hình như vậy, tất nhiên phải có những tư tưởng phản ứng để mong cải tạo tình hình ".

Lương Khải Siêu cho rằng tình hình như vậy, xét trong lịch sử Trung quốc, thời đại nào cũng thường có, đối với việc phát sinh của nền Triết học cổ đại, tất nhiên không phải là không quan hệ, nhưng không phải vì thế mà quả quyết rằng vì có tình hình như thế mới phát sinh ra phong trào Triết học như vậy.

Lời nhận xét như thế thật là đúng, nhưng trong khi Lương Khải Siêu nêu ra mấy điểm cần chú ý, thì đó cũng là điều hậu thế vẫn thường thấy, cũng không thể lấy đó làm nguyên nhân cho việc phát sinh ra phong trào Triết học lúc đó.

Những thuyết của Hồ Thích và Lương Khải Siêu chỉ là cái " Duyên " phát sinh ra học thuyết của Chư Tử, nhưng không thể nói đó là những điều trọng yếu.

Nước Trung Hoa, từ khi có sử cho đến nay, tính ra có hai thời kỳ biến động thật dữ dội :

Thời kỳ thứ nhứt, bắt đầu từ thời Xuân Thu đến thời Hán sơ.

Thời kỳ thứ hai, bắt đầu từ giữa đời nhà Thanh cho đến lúc gần đây.

Thời kỳ biến động sau, xảy ra lúc gần đây, nhằm lúc thời đại bế quan thay đổi thành thời đại toàn thế giới giao thông (từ phong kiến bước sang tư bản với chủ trương tự do mậu dịch, tìm thị trường tiêu thụ hàng hoá).

Nói theo sách vở thông thường, thì từ nền chánh trị quân chủ chuyên chế, biến thành nền chánh trị dân chủ cộng hoà... Và từ xã hôïi thuần tuý nông nghiệp và thủ công nghiệp biến thành xã hội công nghiệp cơ khí. Từ nền thương nghiệp quốc nội, biến thành nền thương nghệp mậu dịch quốc tế. Từ nền giáo dục khoa cử, biến thành một nền giáo dục nhà trường thực tiễn. Nói chung, từ quốc gia, xã hội, gia đình, cá nhân, tất cả những điều khác như : chánh trị, kinh tế, văn hoá cho đến sinh hoạt, tư tưởng, cũng đều có những biến hoá dữ dội. Và cho đến ngày nay, cũng còn đang trên đà biến đổi chưa ngừng, đó là điều mà chính mắt chúng ta đang thấy, và thân mình cũng đang bị lôi cuốn trong tình hình đó.

Lần biến đổi dữ dội trước đây đã thay đổi hoàn toàn cơ cấu vật chất và tinh thần của xã hội, cũng giống như lần thay đổi ngày nay.

Dù cho quốc gia, dân tộc nào, ban đầu cũng đều phải trải qua thời kỳ bộ lạc, chế độ tù trưởng. Ở Trung Hoa, từ thời nước Tần trở về trước, các nước gọi là ở trong chế độ phong kiến, thật ra đó chỉ là hình thức của chế độ bộ lạc. Cái gọi là chư hầu đều là tù trưởng biến tướng, còn thiên tử chỉ là lãnh tụ của tù trưởng các bộ lạc. Thời Tam đại các vì vua nối tiếp nhau cũng chẳng qua là tù trưởng của bộ lạc này, đoạt được quyền lãnh tụ của tù trưởng bộ lạc khác mà thôi. Vì thế nhà Hạ mất mà Kỷ còn, Thương mất mà Tống còn, là chỉ mất cái địa vị lãnh đạo, còn địa vị tù trưởng của mình cũng còn như trước.

Lãnh tụ các bộ lạc cha truyền con nối, tù trưởng của mỗi bộ lạc cũng cha truyền con nối, tay chân của tù trưởng cũng cha truyền con nối, thỉnh thoảng có những lãnh tụ mới nổi lên, cắt đất để phong con, cháu, công thần làm chư hầu, thì phong địa cũng được cha truyền con nối (thế tập) đời đời được giữ đất đai ấy, thì cũng được đồng hàng với các chư hầâu đã có từ trước.

Đó là thực tế tình hình của chế độ phong kiến thời cổ đại. Đến thời Xuân Thu ; các nước mạnh yếu không giống nhau, vì thế lần lần có hiện tượng thôn tính lẫn nhau, và vì thế lần lần chế độ phong kiến bị tan rã.

Đến thời Chiến Quốc, số nước còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, đến lúc nhà Tần gồm thâu 6 nước, và quét sạch luôn hình thức bộ lạc của các nước. Nhưng nhà Tần không đứng vững được lâu, Tần mất, hậu duệ của Lục quốc nổi lên. Sau khi Hán Cao Tổ xưng Đế, ông phong đất cho công thần có người khác họ, và cũng phong cho tử đệ trong dòng.

Đến thời Cảnh Đế, còn 7 nước, các Chư hầu không còn thực quyền, rồi đa số vì lầm lỗi mà mất nước. Đó là chế độ phong kiến như sống lại dưới thời đầu Tây Hán, nhưng đó là ánh đèn sắp tắt còn bừng lên lần chót, chỉ trong giây lát rồi tắt luôn.

Kế đó là chế độ quí tộc hưng thạnh, nhưng đến thời Xuân Thu cũng bắt đầu tan rã.

Trong Kinh Thi có mấy bài Thức vi, Lê hầu ở Tả truyện, vào năm thứ 3 đời Chiêu Công có : Khước, Tư, Nguyên, Hồ, Tuc,ï Khánh, Bá bị giáng chức... Trong số ấy có họ Khổng, khi ở nước Tống, gia đình thuộc hàng quí tộc, nhưng khi dời qua nước Lỗ thì thành lớp bình dân, trường hợp như thế rất nhiều.

Nịnh Thích chăn trâu mà làm quan ở nước Tề, Bá Lý Hề là nô lệ mà làm quan ở Tần, Khổng Tử là lớp bình dân áo vải mà làm quan Tư Khấu ở Lỗ, những lớp hiền tài trong lớp bình dân lần lần được tham gia vào việc chánh.

Cho đến thời Chiến Quốc, Phạm Thư, Trương Nghi, Lý Tư, rồi Tôn Tẩn, Bạch Khởi, Nhạc Nghị... từ lớp bình dân áo vải lên làm tướng cũng có nhiều.

Đến thời Lưu Bang, một người tầm thường lên làm Thiên Tử, các công thần như Tiêu Hà, Hàn Tín, Kinh Bố, Phàn Khoái, đa số cũng đều thuộc lớp người tầm thường. Vì thế mà chế độ chuyên chính quí tộïc cha truyền con nối bị tiêu diệt, đó là một biến đổi lớn lao về phương diện chánh trị.

Các quan Khanh, Đại Phu dưới thời Cổ đại, chẳng những là chủ nhân ông về phương diện chánh trị trong địa phương mình, mà về phương diện kinh tế cũng là đại địa chủ, còn giới bình dân chỉ là nông nô, trong đoạn trước đã có nói qua.

Cho đến thời Thương Ưởng, bày ra phép tỉnh điền, đắp bờ ngang dọc, chế độ nhà vua lần lần bị mất và giới bình dân có nhiều người trở nên giàu có. (Xem thiên Thực hoá chí trong sách Hán thư).

Thật ra, chẳng phải từ dưới đời nhà Tần, Thương Ưởng biến pháp rồi mới xảy ra tình trạng ấy. Trong Kinh Thi có chép " con cháu bình dân mặc áo cừu, con cháu thứ dân làm trăm quan ".

Con cháu thứ dân làm trăm quan, tức là ở phần trước có viết giới bình dân cũng có thể làm quan.

Con cháu bình dân mặc áo cừu, đó là hiện tượng giới bình dân giàu có một cách mau chóng, mà thương nghiệp hưng thạnh cũng xãy ra dưới thời Xuân Thu... như Huyền Cao là một thương nhơn mà đẩy lui quân Tần. Lã Bất Vi là một tay buôn bán mà làm thừa tướng nước Tần, như thế là kẻ buôn bán đã bước chân vào nền chánh trị.

Thiên " Thực hoá chí có viết : " Đến lúc nhà Châu suy, sĩ thứ nhơn, không ai không bỏ khuôn phép cũ và rời căn bổn vì thế dân cày cấy ít, mà buôn bán thì nhiều, kẻ thì sống sang trọng, chó ngựa dư thức ăn ".

Từ khi thương nghiệp hưng thạnh, kẻ giàu thì càng giàu thêm, vì thế giai tầng tư sản nổi lên thay thế cho giai tầng quí tộc, đó là điều thay đổi lớn lao trên phương diện kinh tế.

Phần trên đã nói về việc dùng dao khắc trên thẻ tre viết sách, rồi lần lần tiến lên biết dùng bút, mực viết trên vải lụa, từ nền quan học tiến sang có thầy dạy tư, do quan thơ tiến lần đến chỗ tư nhơn sáng tác, đó cũng là điều thay đổi lớn lao trong ngành học thuật có liên quan mật thiết đến văn hoá giáo dục.

Hồ Thích có viết : " Nền chánh trị đen tối, xã hội rối loạn, giàu nghèo quá cách biệt, đời sống dân khổ sở, đó là hiện tượng của hoàn cảnh xã hội đương thời với những " Nhơn Duyên " như thế mà học thuyết của Chư Tử phát sanh.

Học thuyết của Chư Tử suy vi, một số người đổ lỗi cho Tần Thủy Hoàng đã cấm và đốt sách Thi, Thơ và Bách Gia... Thật ra, nhà Tần đốt sách vở là sách của dân gian, chớ không đốt sách ở quan phủ.

Trong lịnh đốt sách có viết rõ : " Không phải là Bác sĩ quan chức, người nào có chứa Thi, Thơ và sách Bách Gia, đều phải đem ra đốt... " như thế thì Thi, Thơ, sách Bách Gia của Bác sĩ và quan chức không có nằm trong lịnh bị thiêu hủy, đó là điều rất rõ ràng.

Vì thế, trong chức Bác sĩ dưới thời Tần, có nhiều nhà học giả, trong quyển " Hán, Ngụy Bác sĩ khảo ông Vương Quốc duy có viết rõ điều này.

Hơn nữa, nhà Tần rất ngắn ngủi, từ khi hạ lịnh đốt sách, cho đến khi Hán Cao Tổ vào kinh đô, thời gian chỉ có 4, 5 năm, các sách vở trải qua nạn lửa ấy, đến thời nhà Hán lại sống lại rất nhiều, như thế thì Chư Tử đâu đến nổi phải bị diệt mất ?

Hơn nữa, từ xưa đến nay, dùng lực lượng chánh trị để tiêu diệt sách vở, ức chế tư tưởng, không bao giờ có hiệu quả cả, và nhà Tần cũng không thoát khỏi thông lệ đó.

Nhà Tần đốt sách thật ra cũng có ảnh hưởng đến việc phát triển học thuật, có hại đến tự do ngôn luận, tư tưởng, nhưng không thể vì chuyện ấy mà làm cho học thuyết của Chư Tử phải bị suy vi.

Trong " Đối sách ", Đổng Trọng Thư đã viết : " Thuyết Đại nhứt Thống trong kinh Xuân Thư, đó là phép thường của trời đất là thông nghị cổ kim, nếu bây giờ theo dị đạo, dị nhơn luận, theo thuyết lạ của Bách Gia, ý chí không đồng, thì trên không thể giữ được sự nhứt thống, nền cai trị biến đổi mà dưới thì không phải giữ điều kiện gì, thần ngu, không nghĩ đến Lục Nghệ, học thuật của Khổng Tử bị mất mà không tiến được.

Nếu đạo tà tịch bị diệt, thì mới duy trì được nhứt thống, mà pháp độ mới sáng tỏ, dân mới biết phải theo đâu. (Xem thiên Bản truyện trong Hán thơ).

Cũng có kẻ cho rằng, học thuyết của Chư Tử bị suy vi, là do Hán Võ Đế, bãi truất Bách Gia, độc tôn Nho gia, nhưng Đổng Trọng Thư bảo rằng : " Tuyệt cái đạo " ấy là muốn không cho các phái khác cùng tiến, chớ không có ý tiêu diệt các phái khác, đó là chủ trương rõ ràng của Đổng Trọng Thư có ghi chép trong sách vở.

Cũng trong bản truyện, phần sau thấy có chép : " Đối sách của Trọng Thư là suy minh Khổng Thị, ức truất Bách Gia lập ra quan học liệu, ở châu, quận thì cử Mậu Tài, Hiếu Liêm... ". Như thế, chúng ta đâu có thấy bằng chứng gì nhơn đối sách của Đổng Trọng Thư mà Hán Võ Đế hạ chiếu cấm tuyệt Bác Gia.

Trích những lời trong " đối sách ", chúng ta đã thấy rõ, không phải vì Hán Võ Đế mà Học thuyết Bách Gia Chư Tử bị suy vi.

Bách Gia Chư Tử suy vi có nhơn và duyên...Nhơn là bản thân học thuyết của Chư Tử bị biến hóa, Âm dương gia lo chuyện quỉ thần mà bỏ chuyện người. Trâu Viễn lại có thuyết " Đại Cửu Châu ", gặp lúc Tần Thủy Hoàng và Hán Võ Đế đều muốn tìm thuật Trường sanh, vì thế từ thuyết quỉ thần, Âm dương gia lại chuyển sang thuyết thần tiên. Từ thuyết Đại Cửu Châu biến thành thuyết Hải ngoại tam thần tiên, như thế mà trở thành những người phương sĩ.

Phương sĩ đã thạnh, Nho gia liền hỗn hợp vào đó mà thành những thuyết hoang đường (Như thuyết của Đổng Trọng Thư cầu mưa, cầu nắng, Dịch học của Cảnh Phòng nói về chuyện tai nạn lạ lùng...)

Đến cuối thời Tây Hán, loại Vĩ thơ xuất hiện, mà Nho học thay đổi lớn (trong chương : Luận về Nho gia và Phương sĩ tổng hợp, trong quyển Trung quốc lịch sử, Hạ Tăng Hựu viết về điều này rất rõ ràng).

Rồi Đạo gia lại hỗn hợp với Phương sĩ, và Lão, Trang, Liệt Tử đều biến thành tiên. Đến cuối đời Đông Hán, Đạo giáo ra đời, mà Lão Tử nghiễm nhiên thành một Giáo tổ.

Về Nho gia, ngoài ra việc hỗn hợp với Phương sĩ, lại biến thành cái học chương, cú, huấn hổ mất tất cả tinh túy. Mặc gia thì lại thiên về hành vi thực tế, chẳng trọng lý luận, vì thế sáng tác rất ít.

Mặc Tử có tinh thần chịu đựng gian khổ để làm lợi cho thiên hạ, vì thế mà lần lần đi dến chỗ hiệp nghĩa hy sinh mình trong việc giao thiệp bè bạn, báo ơn, báo oán, cho nên học thuyết ấy lần lần suy vi, không có người tiếp tục.

Phái Du thuyết dưới thời Tần, Hán vì sau đó không có đất dụng võ nên lần lần bị mất, những người trong phái Tung hoành biến thành những nhà giàu, ngồi không thu hoa lợi, rồi vua tôi cách biệt nhau ngày một nhiều thêm, có gặp nhau chỉ bằng thư từ, lời sớ... rồi cũng vì đó mà phái Danh gia, sở trường về biện luận cũng bị suy vi luôn.

Phái Nông gia chỉ có sách vở về nghề nông và những chủ trương chánh sách về nông nghiệp, Tiểu thuyết gia thì chỉ chuyên sáng tác ngoại sử, bút ký...

Dưới thời nhà Hán, chỉ còn có 3 phái Nho, Pháp và Tạp gia là còn sáng tác mà thôi. Dưới thời nhà Hán, nền học thuật lần lần chuyển sang nền kinh học, còn ngành văn học thì thiên về lối Phú. Đó là bản thân của học thuật bị chuyển biến.

Từ thời Xuân Thu, nền kinh tế, chánh trị bắt đầu chuyển biến mạnh cho đến đời Tây Hán thì lần lần đình chỉ lại được. Lúc đó chế độ phong kiến và chế độ quí tộc đã hoàn toàn tan rã. Xã hội và nhân sĩ cũng đã yên ổn trong chế độ kinh tế mới vừa gầy dựng.

Sách Thực hoá chí có viết : " Biên chép môn hộ, xem dân bình đẳng, tuy là đày tớ hay nô lệ cũng không có gì hổ thẹn ". Cho đến bực đày tớ và nô lệ mà không có gì hổ thẹn thì cuộc sống đã yên ổn như bình thường rồi.

Tuy dưới thời nhà Hán vẫn còn thi hành chánh sách trọng nông, kiềm chế thương nghiệp, nhưng đối với tình hình kinh tế mới lúc bấy giờ, chưa bị lung lay về căn bản, đó là hoàn cảnh chung về kinh tế và chánh trị lúc ấy.

Hơn nữa nhà Hán đã thống nhứt, lần lần chánh trị được trong sáng, trật tự được ổn định, vua Võ Đế lại có chánh sách dùng người hiền, đề xướng học thuật kinh sử, dùng lợi lộc để lôi kéo kẻ có tài, nền học phong phú không có gì thay đổi, cũng nhờ nhà cầm quyền nhúng tay vào, điều đó cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến việc suy vi của Học thuyết Chư Tử.
 

[ xem Phần Hai ]


 [  Trở Về  ]