|
Đọc bài của Nguyễn Dư
Dựa theo sách "Đường phố Hà Nội" của Nguyễn Vinh Phúc và Trần Huy Bá (Nhà Xuất Bản Hà Nội, 1979) thì cái tên "Hà Nội" mãi đến năm 1831 mới xuất hiện. Từ tên xa xưa La Thành (Thế kỷ thứ 8) đến tên Thăng Long (năm Lý Thái Tổ dời đô, 1010) là một chặng đường dài - với nhiều thay đổi trong kiến thiết cơ sở của thành phố. Thời Lý Thái Tổ, tên Thăng Long chỉ hai khu vực: - Khu vực vua và triều đình ở, nằm trong
"Thăng Long Thành"
Hai khu vực đó làm thành đơn vị hành chính Ứng Thiên. Tên đơn vị này đã thay đổi theo thời gian: - Năm 1014, đổi gọi là Nam Kinh
Đây là sự kiện đầu tiên cho ta thấy kinh đô của thời vua Lê Thánh Tông có 36 phường. 36 phường trên tên là gì? có phải là
36 phố của Long Thành như bài ca dao đã nói không?
Sách này nói về Quyền Mưu - chia làm 6 phần - mỗi phần lại chia ra làm sáu loại quyền mưu (kế). Thắng chiến kế
gồm có:
Địch chiến kế
gồm có:
Công chiến kế gồm
có:
Hỗn chiến kế
gồm có:
Tịnh chiến kế gồm
có:
Bại chiến kế
gồm có:
Đó là 36 kế của người Trung Hoa. Tôi chỉ còn kế cuối cùng: Biết ít, đành nói ít thôi. Tạm biệt Nguyễn Dư và độc giả. Nguyên
Lạc
|
Nguyễn Dư trả lời:
Tôi xin chép ra đây một vài tài liệu chính, liên quan đến phố phường Hà Nội. 1- Sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi (Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976), viết về kinh đô như sau: " (...) Từ Lý đến nay,
cũng đóng đô ở đấy. Có 1 phủ lộ, 2 thuộc huyện, 36 phường.
Chúng ta biết rằng sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi (1380-1442) được Nguyễn Thiên Tích cẩn án năm 1435 và được khắc in năm 1438. Lê Thánh Tông đổi phủ Trung Đô ra phủ Phụng Thiên năm 1469. Như Vậy Nguyễn Thiên Tích không thể cẩn án về phủ Phụng Thiên được. Người đời sau đã sửa chữa, thêm vào sách của Nguyễn Trãi lời cẩn án này. Thời Nguyễn Trãi, Đông Kinh có 1 phủ
lộ, 2 thuộc huyện, 36 phường.
2- Sách "Dư địa chí" của Phan huy Chú (lịch triều hiến chương loại chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960) cũng ghi phủ Ứng Thiên có 4 huyện như sách của Nguyễn Trãi. 3- Sách "Đại Việt
sử ký toàn thư" (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968).
Tóm lại, đời Trần (1230), xung quanh Trung Kinh có 61 phường. Đời Lê, năm 1469, phủ Phụng Thiên có 2 huyện, năm 1490, trong nước có 36 phường. Nói rằng năm 1469, phủ Phụng Thiên "có hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện chia ra làm 18 phường" không biết có đúng không? 4- Sách "Làng xóm Việt
Nam" của Toan Ánh (NXB Khai Trí, Saigon, 1963, Xuân Thu,
Hoa Kỳ, in lại) cho biết:
5- Hoàng Đạo Thúy
viết trong "Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội" (NXB Hội
văn nghệ Hà Nội, 1971):
Sách "Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội" có in kèm bản đồ Đông Kinh vẽ năm 1490 và Hà Nội vẽ năm 1831. Theo sách này thì Hà Nội trước thời Pháp thuộc đã có hơn "36 phố phường, với 36 nghề" rồi. Trễ nhất là từ đầu thế kỷ 20, hai
tiếng "phố phường" được hiểu, được dùng để chỉ phố
xá (Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị). Cụm từ
"Hà Nội băm sáu phố phường" được nhiều tác giả (điển
hình là Thạch Lam) dùng để chỉ thành phố Hà Nội.
Diên Hương (Thành ngữ, điển tích, NXB Phương Lai, Saigon, 1953) cũng giải nghĩa: "Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng sách: Ba mươi sáu chước, chước chạy là hơn. Lời của Đàm Công dạy Vương Kính Tắc, đời Nam Bắc triều, mắc nạn, còn có một chước trốn là hay hơn hết". Đàm Công sống về thời Nam Bắc triều (khoảng 386-588). Trước Đàm Công khoảng một nghìn năm, thời Xuân Thu (722-480 trước TL), Tôn Tử đã soạn ra bộ Binh Pháp gồm 13 thiên: Thủy kế, tác chiến, mưu công, quân hình, binh thế, hư thiệt, quân tranh, cửu biến, hành quân, địa hình, tựu địa, hỏa công, dụng gián (Diên Hương, trang 406). Hơn một trăm năm sau Tôn Tử, vào thời Chiến Quốc (khoảng 479-221 trước TL), Tôn Tẫn cũng có chép một bộ Binh Thư do Quỷ Cốc truyền dạy. Tư Mã Thiên (Sử Ký, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1988) có nói đến sách "Tư Mã binh pháp" của Nhương Thư, người nước Tề. Đến đời Minh (1368-1648), sau Đàm Công khoảng một nghìn năm, có người soạn sách "Mưu lược người xưa", ghi lại 36 kế, đặt tên rõ ràng. Tôi tra tìm trong sách của Tư Mã Thiên, Diên Hương và Nguyễn Tử Quang (Điển hay tích lạ, NXB Khai Trí, Saigon, 1974), tìm ra được vài kế của sách "Mưu lược người xưa", xin ghi tóm tắt ra đây: 1- Vi Ngụy cứu Triệu : Kế của Tôn Tẫn bày cho Điền Kỵ. Nhờ kế này nước Tề đánh thắng nước Ngụy, giải vây cho nước Triệu. 2- Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương : Hàn Tín sai người sửa sạn đạo để ai nấy đều thấy, đều nghĩ rằng công việc sửa đường còn kéo dài, nên không để ý đến nữa. Trong khi đó Hàn Tín ngầm cất quân bất ngờ đánh ải Trần Thương. 3- Giả đạo phạt Quắc : Tấn Hán Công muốn đánh Quách (Quắc?) nhưng còn sợ Ngu đem binh cứu Quách, Hiến Công sai người đem ngọc bích và ngựa hối lộ với Ngu, xin Ngu cho mượn đường đi đánh Quách. Tấn đánh lấy nước Quách, trở lại đánh nước Ngu, lấy lại ngọc và ngựa. 4- Mỹ nhân kế : Đại phu Văn Chủng hiến cho Việt Vương Câu Tiễn 7 kế (trong đó có mỹ nhân kế) để phá Ngô. Câu Tiễn sai Phạm Lãi đưa Tây Thi và Trịnh Đán dâng cho vua Ngô Phù Sai. Vua Ngô mê Tây Thi, dần dần bỏ bê việc nước. Nước Ngô suy yếu, bị nước Việt đánh chiếm. 5- Phản gián kế : Hạng Võ và Phạm Tăng vây thành Huỳnh Dương của nhà Hán. Trần Bình hiến kế ly gián làm cho Hạng Võ nghi ngờ Phạm Tăng. Phạm Tăng tức giận bỏ đi. 6- Khổ nhục kế : Huỳnh Cái, thời Tam Quốc, tình nguyện để cho Châu Du hành hạ, rồi vờ bỏ trốn về hàng Tào Tháo. Được Tào Tháo tin dùng, Huỳnh Cái là nội ứng giúp Châu Du đánh trận Xích Bích, đốt binh Tào Tháo. 7- Liên hoàn kế : Điêu Thuyền đời Hán dùng sắc đờp mê hoặc bố con Đổng Trác, Lã Bố. Nàng giả vờ yêu cả hai người khiến cha con thù ghét nhau. Lã Bố giết Đổng Trác. Ít lâu sau Tào Tháo giết Lã Bố ở Hạ Bì. 8- Tẩu vi thượng? Tại sao không gọi là "tẩu vi thượng kế"? Trong câu nói "tam thập lục kế, tẩu vi
thượng sách", hoặc "tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng
sách", tôi hiểu là chữ thượng đi với chữ sách. "Thượng
sách" là mưu kế hay, ngược với "hạ sách" là mưu kế dở.
Nếu đúng như vậy thì "tẩu vi thượng" hoặc "đào vi thượng"
không phải là tên một kế, mà chính là một phần của một
lời đánh giá. Trong hoàn cảnh của Vương Kính Tắc thì "tẩu"
hoặc "đào" là hay nhất, là "vi thượng sách".
Xin cám ơn lời chỉ giáo của Nguyên Lạc và xin khất bạn một tuần trà đạo. Nguyễn
Dư
|