thấy
mình. . . như sương
|
Ngày 21 tháng 12 năm 2004 gia đình chúng tôi tổ chức lể kỷ niệm 13 năm ngày mất của thân phụ tôi. Vợ chồng anh Lê Triều Phương được mời tham dự. Buổi lể được tổ chức tại thư viện Khoa học Khánh Hòa. Anh Lê Triều Phương có một bài nói về Thi Sĩ Quách Tấn với Thiên Nhiên. Bài tham luận như sau:"Khoảng giữa thập niên 1980 chúng tôi được hầu chuyện cùng thi sỹ Quách Tấn. Câu chuyện xoay quanh lãnh vực làm việc của tôi tạm gọi là "Bảo vệ môi trường sinh học, sinh thái học".
Thực ra tên gốc của lãnh vực ấy là "Landespflege", một khoa học tổng hợp của nước Đức đã có hơn 200 năm lịch sử. Thuật ngữ Landespflege không thể chuyển dịch sang bất cứ một ngôn ngữ nào khác. Với 4 môn học chính bao gồm "Bảo vệ thiên nhiên", "Qui hoạch cảnh quan và du lịch ngoài đô thị", "Bảo vệ quê hương" và "Bảo tồn di tích" (gồm di tích lịch sử, di tích văn hoá và di tích thiên nhiên)
Có thể nói một cách nôm na là một ngành "chăm sóc vùng lãnh thổ" hoặc "chăm sóc quê hương" với nhiều mục đích như giử gìn, làm đẹp, tôn tạo, phát huy, quy hoạch và quản lý phần vật chất lẫn tinh thần và cả phần thiêng liêng của đất nước.
Nó có thể được hình dung như một dòng sông tiếp tục rộng mở, hình thành từ sự hội tụ của bao nhiêu nguồn suối tư tưởng và nhận thức thuộc văn học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên, triết học, tâm lý học, xã hội học v.v.. Xin đan kể một số nguồn suối chính đã đóng góp vào việc xây dựng nền cho khoa học này mà ý tưởng và tình cảm của Quách Tấn về thiên nhiên đã biểu lộ rất nhiều nét tương đồng với nội dung của nó
Thứ nhất là phong trào "Làm đẹp và làm tốt đất nước" (1770-1830). Phong trào này có mục đích tạo lập vườn "phong cảnh" và làm thanh lịch làng nước từ nhà ở, đường đi, công viên đến ranh giới thành phố và vươn ra tận vườn ruộng, đường xe hoả... Ước vọng lớn của phong trào là xây dựng và cải tạo quê hương, đất nước thành một địa đàng.
Thứ hai là phong trào "Bảo vệ quê hương và bảo vệ thiên nhiên" (1830-1919). Phong trào này đã năng nổ tìm hiểu cũng như gìn giữ và phát huy gia tài lịch sử, văn hoá và thiên nhiên- trong đó có một khía cạnh mà nay ta gọi là bảo vệ đa dạng sinh học. Hàng vạn con người tham gia tích cực trong công việc này, đã thành lập nhiều đoàn thể. Dưới những danh xưng khác nhau. Ví dụ như: "Hội du ngoạn" chuyên đến vùng núi cao không bóng người lai vãng để tìm hiểu và mô tả phong cảnh, chim thú, cây cỏ hoang dại nơi đây. Đoàn thanh niên mệnh danh là "Những cánh chim du ngoạn", muốn vươn lên trong tư duy khai phóng và muốn đứng vững trên đôi chân của lứa tuổi mình, đã du khắp mọi miền đất nước. Họ ghi chép sáng tác văn thơ và nhạc rồi đem phổ biến rộng rãi. Tình yêu quê hương và sự hiểu biết về đất nước đã được chuyển tải trực tiếp đến mọi người.
Thứ ba, những nhóm tìm hiểu và bảo tồn các khu hoang dã, núi non, vách đá, đồi cát hoặc bảo vệ chim thú, di tích v.v..đã tiếp tay khơi dậy thiện cảm và cách nhìn chính xác và sâu sắc hơn về thiên nhiên.
Những phong trào này và các trào lưu lập Vườn quốc gia, Vườn đô thị, một mặt đã dẫn đến sự bảo tồn thực vật bản địa hữu hiệu hơn; mặt khác đã góp phần làm tăng vẻ đẹp thành phố, tạo khu du lịch nghỉ ngơi cho dân chúng hoặc là "Xanh xã hội" đưa hoa lá vào những khu phố xám xịt, nơi có giới công nhân ăn ở. Nó cũng đã thúc đẩy nhà nước thiết lập cơ quan và ban hành đạo luật bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ bờ biển, bờ sông và bờ suối như một sở hữu của toàn dân, không ai được xâm chiếm làm của riêng.
Bên cạnh các phong trào vừa kể, nhiều nhà thơ, nhà văn, triết gia cũng đóng góp quan trọng cho cách nhìn thẩm mỹ trước cảnh quan, cho sự "suy nghỉ bằng con tim" trước tạo vật, cho quan niệm về một thiên nhiên thơ mộng hoặc một thiên nhiên thanh bình, uyên nguyên như Goethe, Schiller, Holderlin, Hermann Lon đã có phần đóng góp của mình.
Bảo vệ thiên nhiên và Landespflege dần dần trở thành một nhiệm vụ quan trọng của nhà nước (1919-1945). Sau năm 1945 Landespflege trở nên một khoa học toàn diện mà bảo vệ thiên nhiên là môn sinh vật sinh thái hiện nay. Các hoạt động thực tiển của chúng đều dựa trên luật pháp, quy hoạch và chịu sự quản lý của các cơ quan nhà nước cũng như được sự hổ trợ của các đoàn thể quần chúng.
Chúng tôi đã thông tin ngắn gọn lãnh vực làm việc của chúng tôi như vậy. Thi sĩ Quách Tấn im lặng lắng nghe, nhiều lúc gật đầu, đôi khi có đôi lời bình luận. Thời gian tuy ít song cũng đủ cho chúng tôi cảm nhận được thái độ ưu ái của thi sĩ đối với chuyên môn của chúng tôi, nhất là đã giúp chúng tôi phát hiện được cái nhìn sâu sắc về thiên nhiên của thi sỹ. Tôi dự định triển khai những điều mình đã ghi nhận, nhưng rồi bao nhiêu gánh nặng sinh nhai dồn dập đổ lên vai nên đành chờ một dịp thuận lợi.
Duy có một câu nói của thi sĩ trong câu chuyện đã khiến tôi nhớ mãi. Lúc chúng tôi lướt qua môn qui hoạch cảnh quan dựa trên các chuẩn mực khoa học thẩm mỹ, du lịch và xã hội, chúng tôi đã minh hoạ vài nét tưởng tượng về sự phối trí cây cảnh, màu sắc lên bờ biển Nha Trang, đặc biệt là hình thù đa dạng, cỏ, hoa, trái có hương thơm, có sự chuyển màu của hoa lá theo các mục đích vừa tạo đường nét và màu sắc linh động bắt mắt, vừa gợi cảm và gây ý thức về thời gian, vừa nuôi dưỡng và nhân rộng côn trùng chim chóc. Thi sỹ tỏ vẻ rất thích thú và thốt lên:
"Đó cũng là thơ...là đạo đức rồi!".
Lúc đầu câu nói chỉ gây cho chúng tôi một sự ngạc nhiên, nhưng sau đó vang mãi trong tim. Nhất là sau này khi đọc xong hai cuốn Địa phương chí: Nước Non Bình Định và Xứ Trầm Hương. Chúng tôi đã nhận thức rõ là Quách Tấn đã muốn nói gì.
Đoạn tả hoa xoài trong cuốn Nước Non Bình Định đã khiến hồn chúng tôi say đắm bay bổng trong thế giới màu sắc và hương vị của quê hương Bình Định.
" Hoa xoài ngắm từng nhánh không đẹp, ngắm cả cành cũng không đẹp, ngắm cả cây cũng chưa thấy đẹp. Muốn thấy rõ vẻ đẹp của hoa xoài phải ngắm cả rừng hoa. Và không đâu có thể thưởng thức đầy đủ bằng lúc xoài ra hoa (tháng chạp, tháng giêng âm lịch)...Trước mặt chúng ta một màu vàng linh động, dính liền với sắc trời xanh. Không có một màu nào khác (cho đến cả màu xanh của lá) lẫn lộn vào. Đó là đồng lúa chín của miền lục tỉnh trong Nam? Không, vì sắc lúa chín vàng đậm, còn màu hoa xoài vàng tươi. Đó là rừng hoa hoè nở hạ? Không, vì hoa hoè không có mùi hương. Đó là rừng huỳnh cúc, rừng huỳnh mai? Có thể ví được. Chỉ khác là hương cúc lành lạnh đăng đắng, hương mai dìu dịu và chỉ thoảng qua. Còn hương hoa xoài thì mùi lờn lợt nhưng vị lại ngòn ngọt, bay vào mũi rồi thấm lần xuống cổ, khiến khi đứng ngắm hoa xoài, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý...của chúng ta đều chung hưởng thú.(Nước Non Bình Định, NXB Thanh Niên, TP HCM 1999, trang 99)
Ôi thật là thơ! Quách Tấn đưa chúng tôi vào thế giới của màu sắc và hương vị của xoài, thế giới của hoè, của cúc, của mai, của đồng lúa chín quê hương, của sắc trời xanh, của thời điểm ngắm nhìn, của con người thưởng ngoạn.
Với Xứ Trầm Hương, chúng tôi lại đi trong sắc vàng của hoa mai trên đồi Trại Thuỷ, trong rừng mai Phước Hải và nhất là trong sắc lá đỏ thắm giữa mùa xuân của lá bàng "mùa đông chỉ rụng cho có lệ. Qua xuân thì xanh trở vàng, vàng trở đỏ. Đỏ thắm như màu son, đỏ tươi như môi người thiếu nữ trinh trắng". Những hình ảnh này sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn người Khánh Hoà dù mai sau không còn cảnh trí này nữa. Với Nha Trang, một bức tranh toàn cảnh thơ mộng tươi đẹp với tầng lớp núi non xa gần, với sắc màu đan xen giữa thiên nhiên và công trình nhân tạo, tô điểm cho nhau tạo ra trạng thái hài hoà mà các nhà qui hoạch cảnh quan hay quy hoạch tổng thể đáng quan tâm, đáng cố gắng giữ gìn, đáng ngăn chặn những sự vô tình phá vỡ trong phương án xây dựng phát triển quê hương và phục vụ con người:
"Đứng tại Nha Trang trông sang, những lúc trời quang mây tạnh, nhất là những lúc mặt trời mới lên và lúc bóng chiều đã ngã, thì chúng ta mới thấy rõ vẻ đẹp của núi. Không nhiều cây rậm lá màu sắc núi trông lục lìa. Đỉnh núi không có ngọn đâm lên trời xanh mà chạy lô nhô như những luồng nhưng đường nét sắc bén như một tấm bìa các em cắt làm thủ công . Và những màu đỏ màu xám của gạch của ngói, những màu trắng và màu đen của vôi của đá...tô điểm cho bức tranh màu lục đậm thêm duyên. Ngoài xa những dãy núi cao, màu xanh nhạt làm bối cảnh và ngoài xa nữa là trời xanh . Càng nhìn càng thích"( Xứ Trầm Hương trang 63 )
Đọc xong Xứ Trầm Hương ta thấy nhà thơ Quách Tấn yêu thiên nhiên cũng như yêu quê hương Khánh Hoà vô cùng. Và rồi tôi trực nhận ra trong Quách Tấn còn tiềm ẩn một con người khác: một nhà "Quê hương học", một vị thầy "Thẩm mỹ học" trong môn quy hoạch cảnh quan, điều mà đáng lẽ ra tôi phải thấy được trong lúc hầu chuyện.
Tôi thầm nghĩ: Té ra mình đã không đủ tính nhạy để nhận ra một bậc thầy ngay cả trong chuyên môn của mình.
Thi sĩ Quách Tấn há chẳng lắng nghe và ca ngợi ngành Landespflege đó sao. Thi sĩ đã nói: "Bác không ngờ là người ta đã có một chuyên khoa như vậy!" hoặc "Họ giỏi thiệt!".
Quách Tấn há chẳng đã mỉm cười gật đầu liên tiếp khi nghe nhu cầu làm đẹp cảnh quan, bảo tồn và tôn tạo di tích, phát triển du lịch ngày càng trở nên quan trọng trên thế giới đó sao!
Trong câu chuyện bảo vệ thiên nhiên, Quách Tấn há chẳng ngạc nhiên và ca ngợi những quốc gia tuy không có truyền thống đạo Phật song đã sớm lập vườn quốc gia và ban hành luật pháp bảo tồn giống loại chim thú, cây cỏ hoang dã đó sao!
Nhìn chung hai quyển "Nước Non Bình Định" và "Xứ Trầm Hương" đã gói gém đầy đủ tình cảm và tâm ý nồng nàn của Quách Tấn đối với Quê hương.
Còn thiên nhiên? Thiên nhiên trong hai quyển sách cũng hiện ra với đa dạng hình sắc: lúc lung linh thơ mộng, lúc hoành tráng vĩ đại, khi huyền bí mộng mị.
Mạch ngầm nào đã khiến cảm xúc và tư duy của thi sĩ tuôn trào như vậy?
Giờ đây chúng tôi hết cơ hội được hầu chuyện với thi sĩ, hết cơ hội để trực tiếp nhận được câu trả lời.
Nhưng thơ văn của Quách Tấn còn đó. Nhiều người quen biết thi sĩ còn đó. Tôi còn có cơ hội học hỏi, tôi đã gặp lại hai anh, Quách Giao và Phan Hồng Châu, kẻ sâu nặng với thơ văn, người trầm tư với đạo Phật. Cả hai được gần gũi với thi sĩ và hiểu rõ thi sĩ hơn tôi, ngay cả cách nhìn ngắm thiên nhiên qua con mắt văn thơ và con mắt đạo học. Chúng tôi đã bổ túc cho nhau để cùng nhìn Quách Tấn trong lãnh vực thiên nhiên và quê hương.. Giữa thời đại mà sự giao lưu và ảnh hưởng qua lại của các nền tư tưởng, văn học, nghệ thuật, khoa học trên thế giới đã trở nên sinh động và phong phú thì chúng tôi đã bổ túc cho nhau để cùng nhìn ngắm văn thơ Quách Tấn, nhìn ngắm thiên nhiên trong tâm hồn Quách Tấn qua con mắt văn thơ, con mắt đạo học và con mắt khoa học. Ba quan điểm này đã chi phối cách nhìn, sự cảm nhận và tư duy về thiên nhiên. Chúng cũng có cách cắt nghĩa riêng về nguồn gốc thiên nhiên để từ đó vạch ra chuẩn mực đánh giá và tiêu chuẩn hành xử đối với thiên nhiên.
Chúng tôi nương theo ba quan niệm có sẵn như những cái khung tiện lợi cho việc phân tích tìm hiểu "Quách Tấn và Thiên nhiên". Song chúng tôi chỉ nương theo những gì rất phổ biến và gác sang bên mặt triết lý của chúng. Chúng tôi không có ảo tưởng rằng mình có thể thấu triệt được hết mọi chiều sâu để rồi cuối cùng gán ép quan niệm của Quách Tấn vào bất cứ một quan niệm sẳn có nào.
Vậy ba quan niệm đó là gì?
Thứ nhất là quan niệm đạo giáo. Qua đó con người và thiên nhiên đều được Trời hay Chúa sáng tạo ra. Tuy vậy, con người luôn luôn được xem là "vật chí linh", là sản phẩm chọn lọc được Chúa giao cho nhiệm vụ gìn giữ Quả Đất với hình dạng một Vườn Địa đàng Còn thiên nhiên chỉ là tặng phẩm, chỉ là ân sủng của "bề trên" ban cho con người. Thiên nhiên là cái tách rời khỏi con người. Con người có quyền sử dụng hay bắt nó làm tôi tớ tuỳ theo ý muốn. Gần đây, giới thần học Tây phương cũng đã nhận thức rằng xu thế huỷ hoại thiên nhiên về lâu về dài sẽ đem lại cho con người những hệ quả thảm khốc. Họ đã xuyển dương thêm ý tưởng "phải gìn giữ" những gì do "bề trên" sáng tạo..
Thứ hai, ngược lại với quan niệm trên, thuyết vật lý - mà lâu nay làm nền tảng cho khoa học tự nhiên và vẫn còn giá trị trong đời sống thông thường - nhận thức rằng vũ trụ - bao gồm cả thiên nhiên -- là một guồng máy khổng lồ có tính cơ học được hình thành từ vật chất. Vũ trụ vật lý tự khép kín bên trong và mang tính định mệnh ( như thuyết Quyết định luận Determinism) Tự do ý chí và tự do hành động của con người chỉ là ảo tưởng (A.M.K. Muller: Die praparrierte Zeit, Der Mensch in der Krise- Thời gian được xử lý. Con người trong khủng hoảng, Stuttgart 1972, từ tr. 72) Theo quan niệm này, thiên nhiên không còn là sinh thể linh động. Nó là đối tượng để khảo sát, để mổ xẻ tìm hiểu và được xử lý theo lý trí như những khúc, những đoạn, những lát cắt.. Và mục tiêu tối hậu của lý trí là "kiến lập", là "cải tạo", là "chế biến". Thiên nhiên là nguyên liệu để làm ra sản phẩm.
Thứ ba là quan niệm Nhất thể, cũng gọi là Toàn thể. Theo đó thì thiên nhiên là một Đại thể bao trùm khắp nơi nơi. Con người và xã hội loài người chỉ là những thành phần trong Đại thể ấy. Mối tương quan giữa con người và thiên nhiên là mối tương quan đối tác, tương tự như giữa người với người, không xa cách nhau, không thù nghịch nhau, không ngự trị nhau, không hành hạ và tiêu diệt nhau.
Trong mối tương quan đối tác, con người và thiên nhiên tác động tương hổ với nhau về các mặt thể xác, trí tuệ và tâm linh. Thái độ của con người đối với thiên nhiên là đồng cảm, đồng rung động, đồng đau khổ và đồng sinh diệt. Trong mọi tình huống, quá trình đối tác diễn ra đều mang tính tích cực hay tiêu cực, song không có mâu thuẫn. Thiên nhiên cũng là cuốn sách để đọc, để học, để tra cứu, để chỉ lối hoà nhập vào uyên nguyên.
Chúng tôi đã đối chiếu ba quan niệm trên với những mảnh khảm về Quách Tấn mà chúng tôi tìm thấy để đi đến kết luận rằng:
Thứ nhất, Quách Tấn là con người mến mộ đạo Phật. Những gì thi sĩ cảm, nghĩ và viết không bắt nguồn từ đạo lý "sáng thế".
Thứ hai, Quách Tấn là nhà thơ. Chế ngự thiên nhiên, bắt thiên nhiên làm tôi tớ hay mổ xẻ thiên nhiên ra để tìm hiểu và xử dụng là những điều xa lạ đối với thi sĩ. Thi sĩ cũng không sống giữa một xã hội công nghiệp phát triển, giữa thời đại của chuyển gien hoặc nhân bản con người theo phương pháp vô tính. Như vậy Quách Tấn không có cái nhìn thiên nhiên qua con mắt khoa học và công nghệ.
Chúng tôi đã lắng nghe tiếng lòng của nhà nghệ sĩ qua các văn phẩm, thi phẩm. Ngoài các tập Địa phương chí, chúng ta còn thấy rất nhiều tình yêu thiên nhiên trong thơ Quách Tấn nữa:
Chúng tôi đã lắng nghe tiếng lòng của Quách Tấn qua bài "Tiếng Vui":
Cảm ơn ông hàng xómChúng tôi cảm thấy thi sĩ thật đáng thương chịu đựng loa phát thanh suốt năm tháng, chỉ được đôi khoảnh khắc yên tĩnh để nghe chim hót và ngắm ánh bình minh.
Ngừng mở máy thu thanh
Võng đưa thềm mận chín
Nghe sẻ gọi bình minh.Chúng tôi cũng chua xót cho thi sĩ đã nhờ vào cái lệnh giới nghiêm của thời chiến tranh đầy bất trắc để có chút bình an thưởng thức lời chim gọi đàn và giọt trăng lửng lơ trên cành:
An nhàn học thú người xưaĐôi dòng thơ trên đủ cho thấy những gì mà Quách Tấn khao khát, những gì là chất sống quan trọng của thi sĩ: hoa trái, chim chóc, ánh bình minh, trăng sao và bao nhiêu thành phần khác của thiên nhiên, một thiên nhiên hiện hữu từ muôn triệu năm, trước khi loài người có mặt trên quả địa cầu này.
Mỗi năm thưởng thức vài giờ là may
Phần thì xe cộ máy bay
Phần thu thanh mở sáng ngày tối đêm
Hổm rày nhờ lệnh giới nghiêm
Bình minh thánh thót tiếng chim gọi đàn
Loạn ly đưa lại bình an
Cành chim đôi giọt trăng tàn lửng lơ.
(An nhàn, Nha Trang 1968)Thiên nhiên đối với Quách Tấn là thế giới cùng hiện hữu, cùng chung sống, cùng làm bạn và có những người bạn đáng tin cậy để Quách Tấn có thể trao gởi tất cả những gì tươi đẹp nhất, lạc quan nhất, tinh tuý nhất của cuộc đời mình:
Lo buồn nghỉ chẳng ích chiTừ trong nét cơ bản ấy, chúng tôi lần theo tiếng lòng thi sĩ tuôn chảy theo những dòng thơ văn. Qua đó khuôn mặt bên ngoài của thiên nhiên không ngừng ánh lên, toả sắc lung linh và bao vẻ đẹp đặc thù:
Đời còn vui được ta thì cứ vui
Một mai ba tấc đất vùi
Trần gian để lại nụ cười cho hoa.
(Một Mai, 1979)thanh bình, nhẹ nhàng và nên thơ như bức tranh tả chân với những hình ảnh quen thuộc ở thôn quê:
Bên dòng khe nước tronguyển chuyển, phơi phới đưa hương, rỡ ràng và vui tươi:
Cây măng vòi cong cong
Lắc lư chim chèo bẻo
Trên nền Trời rạng đông.
(Rạng đông)Sóng gợn đồng lúa thơmlộng lẫy choáng ngợp, chợt hiện ra cuốn hút cả thần hồn:
Hương theo ngọn gió nồm
Qua hàng tre nắng nhuộm
Dòn dã tiếng cu cườm.
(Đơn giản)Thình lình dì gió mở tung cửakiều diễm, vương giả làm cho lòng chếnh choáng đắm say:
Đưa chị Hằng Nga lộng lẫy vào
(Thình lình)lãng mạn, tình tự quấn quyện nhau:
Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió
Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng
(Đêm tình)Thược dược gió bay màu tuý vũánh ngời, trân quí, xanh thắm một bầu trời:
Hải đường sưong tỉnh giấc xuân tiêu
(Xuân quạnh)Châu thân trùm phí thuýdiễm lệ, huyền thoại, tung bay:
Đôi mắt ngời kim cương
Mộng ấp trời xanh thắm
Trên cành cửu lý hương.
(Con sâu cửu)Vườn dừa mé biển tung đuôi phựngthanh tịnh và sung mãn nét đẹp tâm linh:
Rẩy bắp sườn non thẳng cánh cò
(Qua Phú Yên tức cảnh)Lặng lẽ cây thềm giếngVới nhà thơ, thiên nhiên đâu chỉ phơi bày vẻ đẹp của mình, thiên nhiên còn trao đổi với thi sỹ biết bao tình ý đậm đà.
Sao sa nặng trĩu cành
(Ếch kêu)bầy én là bạn:
Tuy không người đối bóng- mây nước là bạn:
Bầy én bạn tương tri
(Vàng Ngập Bến)Về đây mây nước bạn mình- mảnh trăng là bạn:
(Lờ mờ )Đêm đêm nằm đợi canh gà giụcthiên nhiên bay nhảy cùng trẻ em, gây reo lên niềm vui trong sáng với tiếng nhạc châu ngọc;
Mảnh nguyệt rừng xa bạn cố tri.
(Lánh cư )Ô vui thay!- trúc đã chung niềm sầu đau nhớ bạn từ buổi chia ly:
Ồ vui thay!
Hoa soan lay
Đàn bướm bay
Trong nắng hường
Trong gió hương
Tiếng ve gọi
Lời trẻ nói
Ngang qua đường
Sang qua mương.
(Trong nắng hè)Ngõ ngoài trúc đổi bao lần biếc- thi sĩ đã cùng rét lạnh với thân phận hẩm hiu của cò:
Còn vướng hoàng hôn lúc biệt ly
(Ngõ trúc)Co ro thân cò lépSự rung động và cảm thông của Quách Tấn với các vật hữu tình đâu có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì thiên nhiên cũng còn biết thương nhau và an ủi nhau kia mà:
Bến lạnh đứng rình mồi
(Dòng thu)Lá thương nhánh nặng bay hầu hếtHoặc:
Trời sợ non côi xích xuống gần
( Trời Đông )Sẻ vàng hoa mận trắngVà đá cũng mang nặng nghĩa tình sâu nặng:
Khắng khít niềm tương thân
( Bóng Chiều Xưa )Khắng khít thớt em nương thớt chịĐối với Quách Tấn, vạn vật đã bồi đắp cho thi sỹ niềm rung cảm và tình thương yêu sâu lắng. Thi sỹ đã đáp lại bằng tình cảm, bằng sự tôn trọng nhau.
Vững vàng hòn cháu đỡ hòn ông
( Chơi Hòn Chồng Cảm Đề )Thi sỹ đã cất bước nhẹ nhàng lúc đi dạo trong đêm khuya vì tôn trọng giấc ngủ của chim:
Bước hoa dìu gió nhẹKhông hái hoa vì thương hoa:
E động giấc hoàng ly
( Giếng Hương)Thương hoa không nỡ háiVà kêu gọi ngọt ngào tha thiết với trẻ em không nên đánh chim:
Hoa rụng lòng thêm thương
( Tình Hoa )... Con chóp màocứng rắn và cương quyết khuyên kẻ bắn chim dừng tay sát hại:
Kêu trên cây đào
Nghe hay làm sao
Em nỡ nào?
Đi tìm cây sào
Đánh con chóp mào
Em nỡ nào
Cầm cây sào
Đánh con chóp mào
Hở em?
Em hỡi em
Để cho chim
Đi tìm
Con sâu con bọ
Đem về nuôi
Bầy con nhỏ
Bên cửa tổ
Nằm há mỏ
Chờ mong mẹ về...
(Chim chóp mào)Ánh lửa hoàng hôn đã lập loèĐó là những nét đồng cảm, đồng rung động, đồng chia xẻ vui buồn trong tấm lòng của thi sỹ đối với thiên nhiên.
Oanh vàng còn nuối bóng hoa lê
Hỡi anh trương ná dừng tay lại
Cửa tổ chim con ngóng mẹ về
( Hoàng Hôn )Trong quan hệ qua lại giữa Quách Tấn và Thiên Nhiên, tính tương hổ về thể xác qua trí tuệ đến tâm linh đã phơi bày một cách tích cực và không mâu thuẩn. Sự thưởng thức hoa xoài mà thi sỹ đã mô tả trong "Nước Non Bình Định" đã biểu hiện điều ấy. Quách Tấn không chỉ nhìn ngắm hoa xoài với con mắt thẩm mỹ mà với cả con mắt triết lý và tâm linh. Quách Tấn đã hoà nhập toàn bộ con người mình, với hoa xoài, cây xoài, rừng xoài. Chúng đại diện cho trăm vẻ, trăm màu của thiên nhiên. Chúng làm điều kiện để khơi động từng phút từng giây, từng sát na cảm xúc của thi sỹ, hỗ trợ thi sỹ ý thức được sự có mặt của ngũ quan và những tính năng của nó mà thuật ngữ của đạo Phật gọi là "nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức" v. v.. Cây xoài cũng là một vũ trụ. Nó là hiện thân của đất, nước, không khí, năng lượng mặt trời của sự vận hành tháng năm, của thời gian vô tận. Hoà nhập vào nó cũng là hoà nhập vào suối nguồn của sự sống.
Một vỏ sò khô cũng vang vọng nghe tiếng reo của biển khơi. Sự sống, sự chết nào lại chẳng liên quan với môi trường sống, với thế giới đồng hiện hữu? Hiện thể của vỏ sò hoặc con sò đâu thể thiếu vắng biển khơi. Tiểu thể và đại thể tương quan, tương duyên với nhau và mỗi tác động đều gây sự chuyển động giây chuyền :
Vỏ sò khô ấp ủHoặc:
Niềm băng tuyết đêm sương
Muôn xa bờ bến cũ
Vang vọng sóng trùng dương
(Ấp Ủ )Nước ngậm trời long lanhĐây là nhận thức triết lý- đúng hơn là đạo lý- của Quách Tấn. Nó bắt nguồn từ sự thấm nhuần đạo Phật
Con cào cào áo xanh
Bờ cao búng chân nhảy
Mây chiều thu rung rinh.
(Búng Chân )Trong thế giới tương quan, tương duyên và có cả tương tác nữa thì đâu đâu cũng mang tính động thái và tính tiến trình. Tất cả đều tác động qua lại, đều vận chuyển, nghĩa là không diển ra một chiều mang tính định mệnh, mang tính "sáng thế". Tính tương quan tương duyên quyết định cho sinh diệt cũng như hình ảnh màu sắc của thiên nhiên, cũng quyết định tính vô biên, vô thường và vô ngã của thiên nhiên.
Thơ văn của Quách Tấn đã giúp chúng tôi hiểu sâu thêm nhận thức ấy.
Đã nhiều khi chúng tôi tự hỏi đến bao giờ mình mới giữ lòng tự tại khi trước mặt luôn luôn có sự đổi thay. Đến bao giờ mới trực cảm được "mộng cũng là chân" để hưởng hương xuân ngào ngạt mãi:
Mười hai mùa lá rụngCon đường của chúng tôi đi còn dài vô tận để có thể được như Quách Tấn là chấm dứt tất cả mọi bay nhảy, mọi tìm kiếm, đi và đến, để như "Chim dừng cánh biệt ly"(Mơ đạo), để không còn hỏi "Cảnh hay lòng" và để nhận thức được rằng "Lòng với cảnh không chia"(Quán trọ đêm thu) và:
Đây mùa hương nở xuân
Theo duyên lòng chẳng đổi
Là mộng cũng là chân
(Nở xuân)Nước mây hằng tự tạiLàm sao đi theo con đường tu sửa thầm lặng trong sự "Ẩn ánh cõi từ bi" của Quách Tấn để trải nghiệm được"Hương gió thoảng liên trì"(Mơ đạo),dù chỉ trong một sát na!
Vàng đá chẳng vô tri.Ngày chúng tôi đến thăm nghĩa trang nơi an nghỉ của nhà thơ Quách Tấn. Lòng chúng tôi hoàn toàn tỉnh lặng sau khi đọc những dòng thơ được khắc trên bia mộ:
Nghìn xưa không còn nữaNghìn xưa không còn là thực tại. Nghìn sau chưa là thực tại. Và thực tại cụ thể hiện ra, chưa kịp nhận biết đủ, đã trở thành quá khứ trừu tượng trong sát na liền theo. Trí tuệ nhận thức được điều đó. Không giữ chặt cái đã qua, không sống với cái chưa có thực khó khăn. Không để cho những gì của quá khứ và tương lai chen vào phút giây đang hít thở thì vầng trăng rạng cũng cho "thấy" cả hương Ưu đàm. Hoa Ưu đàm là hoa Giác ngộ. Hoa này không xuất hiện trong cuộc sống vang dội loa phát thanh và rộn ràng xe cộ cũng không xuất hiện ở nơi đâu đâu cũng tấp nập bay nhảy, tìm kiếm, đi và đến. Bốn câu thơ ngắn trong bài Thoáng hiện của Quách Tấn đã ghi lại điều này.
Nghìn sau rồi cũng không
Phảng phất bờ trăng rạng
Hương Ưu đàm trổ bông.
( Thoáng Hiện )Tại đây, nếu chấm dứt bài này thì thật là đẹp. Tuy nhiên vì đã có ý đồ tìm hiểu về Quách Tấn và thiên nhiên thì cũng nên có đúc kết dù là tạm bợ:
Thứ nhất , trong việc tìm hiểu "Quách Tấn và thiên nhiên" mỹ cảm của chúng tôi được đánh thức và bay theo bao nhiêu vẻ đẹp, bao nhiêu nguồn sống linh động, tươi sáng và nồng ấm của quê hương. Chúng tôi đã phát hiện nhiều nét tương đồng trong thơ văn của thi sĩ so với văn thơ và triết lý thời lãng mạn về mặt cảm xúc, tư duy và nhận thức, nhất là trong cố gắng tìm về một quê hương vĩnh hằng. Dầu vậy chúng tôi không nghĩ rằng Quách Tấn là một nhà thơ thuộc trường phái lãng mạn (romantic). Cõi vĩnh hằng của Quách Tấn là hương liên trì, là hương Ưu đàm, là bờ Giác ngộ.
Thứ hai, đối với bản thân tôi, khi ngẫm lại con đường học và hành tuy dài dằng dặc và gồ ghề của mình, tôi càng thú vị khi hiểu rõ hơn lời thầy Quách Tấn đã nói:
"Đó cũng là thơ ,,, rồi"
Và trên quê hương ta cũng có ngành học hay những môn học tương tự như vậy mà tôi chưa được biết đến vì giới hạn của mình, thì dấu ấn của Quách Tấn lưu lại có thể xem như một phần linh hồn của ngành học ấy -- qua nhận xét chủ quan của tôi.
Thứ ba, Quách Tấn thường được xem như một nhà thơ Đường cổ điển. Tuy vậy theo chúng tôi, cái nhìn và nhận thức về thiên nhiên của thi sĩ thực sự không cổ điển.
Vì sao?
Vì mô hình mới cho suy tư và hành động của con người hiện nay, mà đông đảo các nhà khoa học xuất sắc, các triết gia và các nhà tôn giáo tên tuổi tại các nước công nghiệp tiên tiến đang nỗ lực đóng góp xây dựng, bao gồm bốn trụ chống:
1.) Nhìn nhận tính sinh động của vật chất và mọi sinh thể trong thiên nhiên.
2.) Đòi hỏi một tư duy toàn thể
3.) Gắn liền chủ thể với khách thể và với thiên nhiên.
4.) Bắt đầu đối thoại với thiên nhiên bằng một nền công nghệ và kỹ thuật mang tính giải trừ quan niệm "đóng băng" đối với thiên nhiên, hoà hảo lại với thiên nhiên, phục hồi và tăng cường sức sống của thiên nhiên.Mô hình mới này muốn cống hiến cho con người, con đường thoát ra khỏi mô hình nhận thức cổ điển, tuy nó đã làm nền cho sự phát triển kinh tế và công nghiệp hiện đại, song lại gây ra càng ngày càng nhiều hệ quả tiêu cực cho con người và quả đất. Nhận thức cổ điển được thiết lập trên bốn trụ chống. Đó là:
1,) Định kiến về vật chất như vật liệu chết
2.) Nhìn sự vật như một vật thể cô lập.
3.) Phân cực rõ rệt giữa chủ thể và khách thể với hệ quả là sự vong thân và chuyển hoá (manipulate) đối tượng.
4.) Chế ngự và xử dụng thiên nhiên tận gốc ngọn.Nhận thức về thiên nhiên của Quách Tấn có tiệm cận với mô hình mới vừa gợi ra hay không, có thể kích thích sự suy nghĩ của thế hệ sau hay không, có lẽ phải "tuỳ duyên" và tuỳ theo hai chữ "Sắc Không" trong đạo Phật. Bởi vì thi sĩ đã khẳng định:
Có mình đời chẳng hơn chiVà thi sĩ cũng đã tâm sự:
Không mình cũng chẳng thiệt gì đến ai
(Trôi ngoài)Người nay còn chửa hiểu mình
Người sau đâu dễ thấu tình người nay
Bụi đường khi phủi đôi tay
Nghìn thu tâm sự dấu giày rêu phong
(Tâm Sự)Lê Triều Phương* * * (<- trang trước) / (-> trang sau)