Trở về

thấy mình. . . như sương 
Phụ bản
 
Hai Bài Thơ Có Chung Một Tâm Tưởng
Chúng tôi ba người, thân nhau từ năm học lớp đệ tứ, niên khóa 1955- 1956 tại trường Tư thục Kim Yến Nha Trang. Những ngày nghỉ hè chúng tôi thường tụ nhau về Thuận Hòa, quê hương của Triều Phương, sống giữa vườn cây đầy bóng mát và hoa quả. Ngan ngát mùi hoa cau và hương trầu. Ngoài vườn quê xanh đẹp, chúng tôi còn nhận được một tình thương đằm thắm của mẹ Triều Phương. Đó là người mẹ chung cho ba chúng tôi. Sau khi chúng tôi vào Đại học thì Triều Phương đi du học và chúng tôi dù cách xa song vẫn liên lạc thường xuyên với nhau.

Năm 2001 Triều Phương về Việt Nam, chúng tôi có nhiều ngày làm việc chung. Có những chuyến đi xa, có những buổi thảo luận thơ văn bên bờ biển Nha Trang, trên tầng lầu Thuận Hòa và ngay khi cùng nhau đi trên xe hỏa. Cũng trong một chuyến đi Bình Định, tràn đầy thú vị thì được tin mẹ ốm nặng. Và chỉ một mình Trúc Như về kịp còn tôi và Triều Phương về muộn một ngày. Mẹ mất vào ngày mồng 4 tháng tư năm Tân Tỵ. Ngày làm tuần đầu gần đúng vào ngày lễ Phật Đản năm 2001.

Khuya ngày 14 âm lịch, Trúc Như tụng kinh trên lầu, tôi và Triều Phương ngồi nơi mái hiên trước nhà lặng lẽ nghe kinh và lắng lòng vào cảnh vật yên tịnh. Trăng 14 đã xế tà. Bầu trời xanh cao rộng. Từ cuối thôn vẳng đến tiếng gà gáy sáng. Tâm tư đang buồn bỗng nhiên tiếng gà làm thức tĩnh tâm hồn. Ngẩng mặt nhìn vầng trăng nghiêng xế nơi chân trời, lòng tôi dâng tràn cảm xúc. Tâm hồn hoàn toàn tĩnh lặng. Tấm thân như bay bỗng lên cao. Xao xuyến vì tiếng gà, nồng ấm vì ánh trăng và bát ngát vì bầu trời xanh cao rộng. Rồi bầu trời kia hồng lên vì ánh trăng hay hồng lên vì mặt trời sắp mọc. Có lẽ cả hai và như vậy thì không còn có sự phân chia giữa ngày và đêm, giữa cái chết và sự sống nữa. Lòng hoàn toàn thư thái an nhiên. Mặt trăng kia chìm lặn nơi cuối trời không để mất mà để đem đến sự hồng tươi và niềm an lạc cho tâm tôi. Vì thế nên tuy gió ban mai không thổi mà trời tự nhiên thoảng mát, đưa hồn tôi lâng lâng bay cao vào khung trời xanh bao la đầy hương nhẹ của buổi mai nguyên thủy.

Trăng không còn thấy nữa nhưng tiếng gà gáy sáng vẫn âm vang. Lòng chợt ngộ ra là mẹ đã mất song tình vẫn còn mãi mãi trong cảnh trí, trong màu xanh bích của cỏ cây, của ngôi vườn thân yêu đã được mẹ chăm nom nhiều năm tháng.

Cảnh sáng ban mai này khiến lòng tôi yên thắm và tôi cảm nhận được lời kinh đầy tình thương và ấm áp của Trúc Như. Tôi hiểu được rằng khi lòng ta thanh thản thì lời kinh cầu như được sáng tỏ thêm lên và ân tình tràn ắp trong giọng đọc dễ truyền cảm xúc đến tận lòng người. Vì vậy nên tôi như được tan hòa vào vũ trụ cùng với lời kinh. Và sự mất còn không là vấn đề bận tâm nữa... Cảm ơn buổi bình minh ngày rằm tháng tư năm Tân Tỵ ấy và bài thơ Ban Mai An Lành tuy không xuất sắc song mỗi khi đọc lại, lòng tôi cảm nhận thấu suốt được cuộc đời có nhiều phút yên lành và trong những phút giây yên lành đó nếu tình cờ ta nhận được thì ta sẽ hạnh phúc biết là dường nào.

. Bài thơ thứ nhất là bài thơ của tôi làm vào dịp vào Phan Rang để làm tuần cho thân mẫu của nhà thơ Lê Triều Phương.

Ban Mai An Lành.
           Tặng Tâm , Châu.

Có vầng trăng mười bốn
Vang tiếng gà bình minh
Một bầu trời ửng sáng
Rạng rỡ ánh thanh bình.

Một vầng trăng mười bốn
Chìm tận cuối chân trời
Hồng tươi niềm an lạc
Cho lòng thêm thảnh thơi

Gió không thổi mà mát
Hồn không nâng mà cao
Tình lắng trong rạt rào
Hương trời mai bát ngát .

Trăng mười bốn đã khuất
Thanh thản trong tiếng gà
Mẹ già đã đi xa
Vườn xưa xanh biếc ngọc

Lòng con dâng lên mẹ
Lời kinh sớm nguyện cầu
Khói hương lan nhè nhẹ
Ấm từng tiếng từng câu

Trời xanh hương cũng xanh
Ban mai đầy an lành
Trăng tan hòa vũ trụ
Lòng thấm nhập lời kinh.

Quách Tùng Phong

Sau đây là lời của Triều Phương:

Ngay sau khi sáng tác xong bài thơ, Tùng Phong đưa cho tôi xem.

Trong không gian ấm áp lời kinh do Trúc Như tụng, trong sự an lành ngự trị nơi nơi, bài thơ của Tùng Phong đã truyền vào tâm tôi bao cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ về cuộc ra đi của mẹ lại thầm lặng tuôn trào. Tôi để cho những vần thơ lắng xuống, thả lòng vào ánh trăng đang giao hòa cùng ánh hồng của mặt trời đang lên và để nó bay theo tiếng gà tỏa rộng khắp không gian. Tôi quyết tâm lấy vần bài thơ của Quách Tùng Phong làm chuẩn, sắp xếp lại ý thơ của mình cho phù hợp theo đó và viết lên giấy. Sau khi nhận được bản in bài Ban Mai An Lành của Quách Tùng Phong, tôi lại ghi bài thơ của tôi vào bản in ấy.

Và bài thơ thứ hai:

Ban Mai An Lành

Tặng Châu, Giao.
Một vầng trăng mười bốn
Mát thôn xóm bình minh
Non xa trời ửng sáng
Lòng con nở an lành

Có vầng trăng mười bốn
Đưa mẹ về cõi trời
Hoa đưa hương an lạc
Mưa diệu pháp nơi nơi.

Mẹ về cõi tươi mát
Lòng thênh thang trời cao
Hương trầm tỏa ngạt ngào
Theo gió lành bát ngát.

Trăng mười bốn chìm khuất
Thôn xóm vang tiếng gà
Bóng mẹ già khuất xa
Vườn trầu cau biếc ngọc

Lời kinh Từ tiễn mẹ
Lay ánh sao nhiệm mầu
Ngân lá cành nhè nhẹ
Vang vang suối khe sâu.

Một bầu trời ngát xanh
Tiếng niệm Phật an lành
Thấm cỏ cây vũ trụ
Nhuộm cõi đời tử sinh.

- Năm 2007, nhân chuyến về Việt Nam dưỡng bệnh, tôi mang theo một xấp thơ viết trên giấy tạp với ý định chép lại cho dễ đọc. Tại bệnh viện Pháp Việt tọa lạc nơi khu Phú Mỹ Hưng, tôi phát hiện hai bài thơ của chúng tôi được xếp chung với những bài khác ngay sáng sớm ngày mà Quách Tùng Phong và Trúc Như đến thăm tôi. Bệnh viện rộng và thoáng. Ba chúng tôi lại ngồi bên nhau trong không gian tĩnh mịch của phòng bệnh.

Tôi đưa ra cho hai bạn xem trang giấy có ghi hai bài thơ cùng một nhan đề: Ban Mai An Lành. Hai bài thơ làm vào ngày 6 tháng 6 năm 2001 tức ngày rằm tháng 4 năm Tân Tỵ. Phật lịch 2545). Cả ba đều sửng sốt vì ngày hôm nay cũng là ngày rằm tháng tư năm Đinh Hợi, ngày Phật Đản năm 2551. Tùng Phong có định viết một bài bình cho hai bài thơ Ban mai an lành. Tôi rất hân hoan nhường cho Tùng Phong công việc này.

(Lê Triều Phương)

Lời Bình

"Hai bài thơ đều bỏ vần như nhau. Nội dung có nhiều khác biệt song lại bổ túc cho nhau, tinh ý mới nhận ra. Nhìn chung thì đây là hai bài thơ họa vận về một buổi ban mai an lành. Nếu đem so sánh từng khổ một chúng ta mới nhận thấy đây tuy là hai bài thơ họa vận cùng một đề tài song nội dung có phần khác biệt.

Trong khổ đầu, cả hai bài thơ cùng chung một vầng trăng mười bốn song bài thơ I "có vầng trăng" còn bài thơ II lại "một vầng trăng", "Có" là khẳng định còn "một" là duy nhất. Cả hai ý đều tách biệt nhau để rồi nơi khổ thứ hai lại hoán vị cho nhau. Khổ đầu bài I đi từ cảnh gần đến cảnh xa để nói lên tâm tình man mác rộng theo cùng không gian. Khổ đầu bài II lại đi từ xa đến gần để nói đến lòng của mình trước non xa và trời ửng sáng. Từ cảnh quan đến nội tâm.

Khổ thứ hai của bài thơ thứ II bổ túc thêm cho khổ hai bài thơ thứ I vì trăng tiễn mẹ cho "hồng tươi niềm an lạc". Hoa hương, diệu pháp góp thêm phần thảnh thơi cho khắp cả bầu trời.

Khổ thơ thứ III của bài thứ II đã giải thích vì sao:

"Gió không thổi mà mát"
"Hồn không nâng mà cao"
là vì đã có Mẹ, có sự hiện diện của tình thương.

Khổ thơ thứ IV của hai bài thơ hoàn toàn đi song song cùng nhau như đôi bạn nắm tay nhau đi trong vườn hạnh phúc.

Đến khổ thơ thứ V thì dường như hai người bạn này rời tay nhau ra để cùng cúi mình xuống hái những đóa hoa tư tưởng. Một bên thì để lời kinh thấm vào lòng. Một bên thì đưa câu kinh vang vọng ra xa:

Ngân lá cành nhè nhẹ
Vang vang suối khe sâu.
Và đến khổ thơ cuối cùng thì ta lại thấy họ lại tay trong tay cùng thấm hòa vào vũ trụ.

Một buổi chiều trong bệnh viện, một buổi chiều tràn đầy vui sống hạnh phúc đến bên ta như một buổi bình minh có vấng trăng mười bốn có tiếng gà rộn rã và an lạc thấm vào tim cùng hòa nhịp với lời kinh cầu nguyện.

An lạc, cầu xin đến cho khắp mọi người.

Từ hai bài thơ Ban Mai An Lành có một bài thơ thứ ba của Quách Tùng Phong ra đời:

Canh Gà Khuya Ấy

Mẹ có ba người con trai
Một ở phương trời xa
Lòng bao giờ cũng bùi ngùi thương nhớ
Một ở bên giường hôm sớm chăm lo
Một ở cách xa nhưng vẫn thường về thăm viếng
Ngày mẹ mất
Một người con có mặt
Còn cả hai về đủ trước khi chôn
Con là ba nhưng chung một tâm hồn
Yêu mến mẹ.
Buổi bình minh
Một người con tụng kinh
Còn hai người ngồi lặng thinh nơi hiên vắng
Ngắm nhìn vầng trăng lặng
Trăng hạ tuần
Lòng thoáng nhẹ bâng khuâng
Vẳng tiếng gà xa
Bàng bạc trăng tà
Chợt thấy tâm hồn xao xuyến
Cuộc đời này
Đã bao lần như nguyện?!
Mà chỉ canh gà khuya ấy
Vẫn còn đồng vọng mãi trong tim

Phật Đản ngày rằm tháng tư năm Đinh Hợi
( 31 tháng 5 năm 2007)
Quách Tùng Phong
* * *
(<- trang trước)  /  (-> trang sau)