Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về   ]            [ Trang chủ ]             [ Tác giả ]

GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ NHẬT BẢN 

Biên soạn: Nguyễn Nam Trân 

PHẦN III : MỞ CỬA VÀ DUY TÂN - THỜI ĐẠI MEIJI 

Chương I : Mở cửa thông thương- Mạc phủ Edo diệt vong 
Tiết 1: Mạc phủ chấp nhận mở cửa: 
1.1 Cuộc cách mạng kỹ nghệ khiến liệt cường tiến qua châu Á: 

Không phải đột nhiên mà Mạc phủ Edo mở cửa khi đoàn tàu của Đề đốc Perry đến đòi hỏi thông thương.

Chính ra từ nửa thế kỷ trước khi Perry đến Nhật, thuyền bè của liệt cường đã lảng vảng ở vùng biển Nhật Bản, khi ẩn khi hiện. Họ cũng đã nhiều lần vào đến tận các hải cảng tuy chỉ là để " xin nước và củi" (nói chung là lương thực và chất đốt) nhưng chắc chắn những mong có cơ hội buôn bán.

Câu hỏi đáng đặt ra là tại sao các cường quốc Âu châu và Mỹ châu từ nơi xa xôi lại tìm cách đến châu Á cho bằng được? Có thể trả lời một cách giản dị trước khi đi vào chi tiết là vì họ muốn đem những thương phẩm của mình bán cho người châu Á, nói cách khác, họ đi kiếm thị trường.

Ở Âu châu lúc đó đã tiến hành một cuộc Cách mạng kỹ nghệ (The Industrial Revolution). Đó là một biến chuyển to lớn khởi đầu ở nước Anh từ hậu bán thế kỷ 18 (niên đại 1760). Cụ thể mà nói, trước tiên nó đã manh nha từ các phát minh như động cơ chạy bằng hơi nước cũng như máy móc dùng trong công nghiệp và kỹ thuật luyện thép. Xã hội công nghiệp có khả năng sản xuất hàng loạt những sản phẩm công nghệ có phẩm chất tốt đã thành hình. Có được kinh nghiệm sản xuất hữu hiệu như thế, người Anh đã sản xuất một cách thừa thãi. Những sản phẩm họ chế tạo ra nhiều đến nổi sau khi bán ra cho cả lục địa Âu châu rồi mà vẫn còn thừa.


Hình ảnh cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Âu châu thế kỷ 18.

Khổ cho họ hơn nữa là bên Mỹ, bên Pháp, các cuộc cách mạng kỹ nghệ tại chỗ cũng được tiến hành theo. Kết quả là nếu các nước Âu Mỹ không tìm ra nơi nào trên thế giới tiêu thụ được sản phẩm thặng dư của mình thì nền kinh tế của tất cả bọn họ tất lâm vào cảnh khốn đốn. Các cường quốc ấy mới đưa những con tàu đen (kurofune = hắc thuyền = tàu vỏ sơn đen) chạy với động cơ bằng hơi nước và trang bị trọng pháo đến tận những miền đất xa xôi để tìm kiếm thị trường mới.

Về phương Đông, họ đi hết Ấn Độ rồi đến Đông Nam Á. Đến tiền bán thế kỷ 19, cuối cùng họ đã đặt được chân lên vùng Cực Đông.

Để có được thị trường, các nước mạnh đó không đếm xỉa gì đến phương tiện. Nếu họ thấy đối tượng chỉ là một xã hội bán khai, sẽ không nề hà việc sử dụng phương tiện võ lực để cưỡng bách, biến nơi đó thành đất thực dân. Một mặt, họ tung thương phẩm của mình bán hàng loạt, đồng thời thu mua nguyên liệu tại chỗ với giá rẻ, dùng nó để chế tạo thật nhiều sản phẩm và bắt người ở phần đất bị thực dân đó phải mua. Khi hoàn thành được cái "vòng" (chu kỳ) mậu dịch này rồi, họ tha hồ thu thập lợi ích. Cách làm ăn như thế được gọi là chủ nghĩa đế quốc (imperialism). Sau này, đến phiên Nhật Bản cũng chạy theo liệt cường để thi hành một chính sách đế quốc y như thế. Tuy nhiên, ở thời điểm chúng ta đang bàn thì ngược lại, chỗ đứng của nó hãy còn là một quốc gia ươn yếu, bị uy hiếp.

Đứng trước sự biến đổi cực kỳ nhanh chóng của tình hình thế giới, thử hỏi những kẻ đứng đầu Mạc phủ Edo đã nắm được tình hình đến mức độ nào?

Thực ra, sự hiểu biết về thế giới lúc đó của họ khá chính xác. Cho dù theo một chính sách đóng cửa (tỏa quốc) nhưng nhờ giao thiệp với Hà-Lan, Trung Quốc nhà Thanh và Triều Tiên, họ có không ít thông tin về những diễn tiến bên ngoài.

Mạc phủ cũng được biết tin tức nước ngoài qua ngõ Satsuma bởi vì kể từ khi hạm đội của Anh ghé vương quốc Lưu Cầu (đang ở dưới quyền cai trị của phiên Satsuma) vào năm Bunka 13 (1816), tàu các nước khác cũng lần lượt cập bến. Có thể hiểu là phiên Satsuma đã thông báo sự tình cho mạc phủ. Ngoài ra, còn có việc hàng năm, thương thuyền Hà Lan khi ghé đến Nagasaki đều phải phúc trình cho mạc phủ về tin tức cập nhật trên thế giới qua văn kiện có tên là Oranda fuusetsusho (Hà Lan phong thuyết thư).

Do đó, chắc chắn mạc phủ đã biết ngay là có cuộc Chiến tranh Nha Phiến xảy ra giữa nhà Thanh và nước Anh vào năm 1840-42, Trung Quốc đã thua trận như thế nào và mất Hương Cảng ra sao. Chính vì vậy họ đã vội vàng sửa đổi đường lối ngoại giao.Bằng cớ là năm Tenpô 13 (1842), mạc phủ cho ngưng Lệnh Ikokusen uchiharai tức lệnh đánh đuổi tàu thuyền ngoại quốc (ban hành năm Bunsei 8 tức 1825). Từ đó, Nhật Bản ra một lệnh mới định rằng tàu thuyền ngoại quốc (dị quốc) tức tàu phương Tây nếu đến Nhật sẽ được cấp cho nước (thủy), củi (tân, nhiên liệu) và lương thực mà về. Đó là lệnh Shinsui Kyuuyo (Tân thủy cấp dử) năm Tenpô.

Tuy nhiên, họ chỉ ngừng lại ở đó chứ không có chính sách khai phóng nào khác.

Năm 1844 (Kôka nguyên niên), quốc vương Hà Lan Guillaume II (1702-1849) có gửi một bức thư với lời lẽ nhẹ nhàng cho phía Nhật khuyên hãy suy nghĩ về tình hình quốc tế mà chấp nhận mở cửa thông thương. Thế nhưng thái độ của mạc phủ vẫn không thay đổi.

Hai năm sau, 1846 (Kôka 3), viên Tư lệnh hạm đội Đông Ấn Độ của Hoa Kỳ là James Biddle (1783-1848) đưa 2 chiếc thuyền buồm đến Uraga, yêu cầu mạc phủ mở cửa nhưng vẫn bị cự tuyệt. Chỉ có một người đã có thể đập tan thái độ cứng rắn ngoan cường của mạc phủ - chính là người mà ai trong chúng ta cũng đều biết - một Tư lệnh khác của hạm đội Đông Ấn Độ, Matthew Calbraith Perry (1794-1858).

Nói về lý do người Mỹ đòi mạc phủ mở cửa thì chưa hẳn lúc đó họ đã có chủ đích lấy nước này làm thuộc địa, mà bản tâm có lẽ chỉ muốn Nhật Bản cho phép những tàu mậu dịch với nhà Thanh (lúc này đã khá phát triển) và những tàu săn cá voi của họ ghé lại các hải cảng Nhật. Lúc này, Mỹ đã phái rất nhiều tàu săn cá voi đi khắp các vùng biển của Thái Bình Dương để lấy dầu cá. Dầu cá bấy giờ được họ sử dụng như nhiên liệu để đốt và thắp đèn. Đó cũng là thời điểm ra đời ( 1851) của câu chuyện về cuộc chiến đấu của thuyền trưởng Achab của chiếc Pequod và con cá voi trắng khổng lồ Moby Dick mà nhà văn Herman Melville đã miêu tả rất sống động. Tác giả đã viết một câu hầu như là tiên tri:

"Nhật Bản, cái nước đóng kín cửa khóa hai vòng kia, nếu một ngày nào phải tỏ ra hiếu khách, đó cũng là nhờ có những con tàu săn cá voi như chúng ta. Và chuyện như thế đang sắp sửa được thực hiện" [1]


Kỹ nghệ săn cá voi

Trong giai đoạn này, cuộc cách mạng kỹ nghệ cũng bùng lên ở Mỹ và những người lao động phải tiếp tục sản xuất các thương phẩm đến khuya nên cần đèn để soi sáng. Các thương phẩm làm ra như vậy một phần sẽ được các đoàn tàu chở đi, vượt Thái Bình Dương bao la để đem bán tận bên Trung Quốc của nhà Thanh. Do đó mà bằng mọi cách, chính quyền Mỹ mong sao có những hải cảng làm trạm nghỉ dọc đường cho đoàn tàu buôn của họ nên thúc bách Nhật phải mở cửa.

1.2 Chiến thuyền Perry đến Nhật và việc ký kết hiệp ước thân thiện Nhật Mỹ:

Taihei no nemuri wo samasu Jôkisen
Tatta shihai de yoru mo nemurezu

Hai câu vè nói trên có đăng lại trong sách giáo khoa nên ở Nhật, ai cũng biết. Đó là hai câu nói cười cợt mà người đương thời đặt ra nhân việc pháo thuyền của Perry đến Nhật.

Tại sao lại bảo cười cợt? Thật ra, Jôkisen (Thượng Hỷ Soạn) là tên của một thương hiệu về trà nổi tiếng là ngon, cho nên đại ý câu vè là "Uống xong 4 tách trà Jôkisen thì mắt tỉnh rụi, hết cả buồn ngủ". Thế nhưng trong thi ca Nhật lại có hình thức tu từ tên là kakekotoba, nôm na là một chữ dùng cho hai hay nhiều nghĩa. Câu vè trên còn có thể dịch là "Chỉ cần có 4 chiếc thuyền chạy bằng hơi nước của Perry mà dân chúng cả nước Nhật đã rơi vào cảnh hoảng loạn, đêm lo đến mất ngủ" (nemurezu). Từ Jôkisen (Chưng khí thuyền) cũng có thể hiểu là tàu chạy bằng hơi nước vậy.


Những con tàu đen (kurofune) theo cách nhìn đương thời (1854)

Thế nhưng nghe thế mà bảo rằng lúc hạm đội của Perry đến Uraga, người Nhật sợ hãi, bỏ chạy tán loạn thì không đúng sự thật. Dĩ nhiên cũng có kẻ hoảng hốt nhưng người thời ấy phần lớn tỏ ra rất hiếu kỳ, lắm kẻ còn rủ nhau ra bờ biển để xem cho được hình thù chiến thuyền của Perry nó ra làm sao. Người ta kể lại rằng trong những quán nước chè bên bờ biển, khách khứa tụ tập để xem chiến thuyền không phải là ít.

Trong bọn họ, còn có những kẻ dám cưỡi thuyền con xáp lại tàu Mỹ nữa kia. Có lẽ thời đó, tàu ngoại quốc qua lại vùng biển Nhật Bản cũng không hiếm nên người Nhật đâm ra dạn dĩ. Họ không xem việc Perry đem hạm đội đến là một tin chấn động như cách chúng ta thường tưởng tượng.

Thế nhưng Perry là một quân nhân có thái độ cứng rắn, bức hiếp. Ông đến Nhật là để trao cho chính quyền quốc thư của Tổng thống Mỹ Millard Fillmore ( 1800-1874, tổng thống thứ 13, tại chức 1850-53) đòi Nhật phải mở cửa thông thương. Người thời đó kể lại rằng các khẩu đại pháo của 4 chiến thuyền màu đen đều chĩa về phía Edo

Trước đe dọa này, các nhà lãnh đạo mạc phủ lo sợ không biết phải làm sao. Họ đành dùng kế hoãn binh để tránh hiểm họa trước mắt: "Các ông cứ về đi cái đã, hẹn đến sang năm chúng tôi sẽ trả lời!". Perry đồng ý đưa thuyền về nhưng khi ông ta vừa đi, lại có sứ giả của Nga là Đề đốc Putyaacutetin (Evfmij Vasalievich, 1803-1883) [2] đến Nagasaki và cũng đưa ra đòi hỏi tương tự như của Perry. Trước nguy cơ tiếp nối như thế, thử xem mạc phủ đã động tĩnh như thế nào?

Thực ra, phản ứng của mạc phủ đã làm ta ngạc nhiên không ít.

Chức Rôjuu shuza (Lão trung thủ tọa) đứng đầu Mạc phủ Edo lúc đó tên là Abe Masahiro (A Bộ Chính Hoằng, 1819-1857) đã hỏi ý kiến mọi người nghĩa là không riêng gì các daimyô (Lãnh chúa địa phương) và các mạc thần mà còn mở rộng phạm vi trưng cầu ý kiến rộng rãi. Việc ấy có tiếng vang rất lớn. Nhiều bức thư bày tỏ ý kiến đã được đạo đạt đến mạc phủ. Người ta còn giữ lại được 250 bức thư trả lời của các daimyô, 83 đến từ các cận thần của Shôgun, 22 từ các nho gia và 9 từ các người khác. Tuy nhiên đừng nghĩ đây là một thứ Hội nghị Diên Hồng. Các phiên như Mito và Chôshuu chủ trương đừng khoan nhượng, một số đông cho rằng phải tránh chiến tranh nhưng trong các thư trả lời cũng có nhiều ý kiến chẳng đáng để ý vì tỏ ra không nắm vấn dề.

Để đối phó với nguy cơ chung, Abe đã áp dụng "thể chế hiệp lực giữa mọi thành phần trong nước" (gọi là kyokoku icchi taisei = cử quốc nhất trí thể chế) chứ thực ra cho đến lúc đó, các daimyô gọi là tozama chỉ đứng vòng ngoài, họ chẳng bao giờ được hỏi ý kiến về quốc sự, đừng nói chi giai cấp bình dân. Những người này cho đến lúc đó tuyệt đối không có quyền chõ miệng vào chính sách nhà nước.

Dù sao, việc Abe nhìn nhận tiếng nói của người dân đã dẫn đến việc người dân ý thức được khả năng chính trị của mình. Từ đó đã phôi thai phong trào vận động gọi là "tôn quân nhương di" (sonnô jôi = phò vua đuổi giặc ngoài) và "thảo mạc" (tôbaku = đánh đuổi mạc phủ). Tất cả sẽ đưa đến sự băng hoại của chính quyền vũ gia về sau.

Nhân Abe cũng có báo cáo mọi việc đã xảy ra cho triều đình cho nên kết quả là địa vị và quyền uy của triều đình được ông vô tình đưa lên cao hơn. Điều này cũng là một nguyên nhân quan trọng đã khiến cho thế lực của mạc phủ suy yếu đi.

Xin trở lại với câu chuyện về Đề đốc Perry.
 
Đề đốc Matthew Calbraith Perry (1794-1858)
Ông thuộc hải quân Mỹ, sinh năm 1794 trong một gia đình mà cha và anh đều là quân nhân ở Newport, bang Massachussetts. Từng là sĩ quan đóng ở Địa Trung Hải và làm việc ở công binh xưởng Hải quân. Năm 1837 lần đầu tiên Mỹ đóng được chiến thuyền chạy bằng hơi nước và ông trở thành người hạm trưởng tàu hơi nước đầu tiên.Tháng 3 năm 1852, được Tổng thống Fillmore cử làm Tư lệnh hạm đội vùng Đông Ấn Độ kiêm đặc sứ ở Nhật.Vào ngày lịch sử 07/08/1853, ông đã đưa đoàn tàu đen 4 chiếc đến Uraga (Nhật) trình quốc thư. Ngày 13/02/1854, y hẹn, ông đã trở lại cảng Yokosuka với đoàn thuyền 7 chiếc và xâm nhập vào sâu trong vịnh Edo, có ý dùng võ lực thật sự nếu thương thuyết không xong. Rốt cuộc Perry đã thành công. Mạc phủ bằng lòng tổ chức cuộc thương lượng lần đầu tiên ở Yokohama. Perry tỏ ra rất trì chí. Sau khi phá được nhiều rào cản do những nhân vật cấp dưới đặt ra để ngăn chặn, ông nói chuyện thẳng với chức Rôchuu (Lão trung) là Abe Masahiro và đến ngày 31 tháng 3 thì ký được hiệp ước hòa thân.

Sau khi về nước nghỉ ngơi, ông có viết ký sự gồm 3 cuốn về chuyến viễn dương lịch sử đó để tường trình cho Quốc hội. Mất ở New York vì bệnh gan tái phát vào năm 1858. Chính ra ông đã đi vào lịch sử một cách tình cờ. Trước tiên, Đề đốc Mỹ James Biddle mới là người đem hai chiến thuyền vào vịnh Edo đòi Nhật "khai cảng" đầu tiên (1846) nhưng lúc ấy tình thế hãy còn chưa chín muồi nên Biddle phải trở lui tay trắng. Còn như sứ thần người Nga Puyaacutetin (Putiatine) thì khi đến Nagasaki năm 1853, bị chậm chân mất một chút vì. lúc ấy Perry đã có mặt ở Uraga,

Như vừa nói trong phần tiểu truyện, tháng 1 (lịch Nhật) năm 1854 (Ansei nguyên niên) rời cảng Norfolk, đi vòng rất xa nhưng vẫn đúng hẹn, Perry lại đến Nhật. Lần này, ông mang 7 chiếc chiến thuyền nghĩa là nhiều hơn so với lần trước. Và lần này ông trở lại khá nhanh chóng vì mới rời Nhật cách đó có nửa năm. Có thể vì ông sợ Puyaacutetin của Nga phổng tay trước.

Sau khi đặt chân lên Yokohama, thái độ của Perry trước sau vẫn cứng rắn tuy lời lẽ trong công hàm ngoại giao của Tổng thống Fillmore rất lịch sự. Mạc phủ quá kẹt đành phải chấp thuận đòi hỏi mở cửa hải khẩu của Mỹ. Hiệp ước thân thiện (tiếng Nhật gọi là hòa thân = washin) Nhật Mỹ như thế đã được ký kết ngày 31 tháng 3 năm 1854.

Hiệp ước này đã được ký ở một nơi gần trạm Kanagawa trên đường Tôkaidô, nay có tên là Yokohama. Tên của nó là Điều ước Kanagawa (Kanagawa Jôyaku) là vì cớ ấy.
 
Những bước tiến đến việc mở cửa biển
1853 Đoàn thuyền Perry đến Nhật Hẹn trở lại
1854 Đoàn thuyền Perry trở lại. 
Ký kết hiệp ước thân thiện Nhật Mỹ
Mở cửa
1856 Tổng lãnh sự Harris phó nhậm Đàm phán thông thương
1858 Ký kết hiệp ước giao hiếu thông thương Nhật Mỹ Thành quả

Nội dung của Hiệp ước thân thiện năm 1854, ngoài những lời hoa mỹ, có 4 điều khoản chính:

1) Nhật Bản sẽ cung cấp lương thực, chất đốt cho tàu thuyền Mỹ.

2) Hai bên hứa cứu hộ lẫn nhau mỗi khi có tàu thuyền gặp nạn.

3) Nhật thừa nhận việc Mỹ gửi lãnh sự đến đóng tại Shimoda và Hakodate.

4) Nhật dành cho Mỹ quyền quốc gia được ưu đãi đặc biệt.

Điều thứ tư là một điều khoản có tính cách một chiều. Còn mấy chữ "quyền quốc gia ưu đãi đặc biệt (saikeikoku taiguu = tối huệ quốc đãi ngộ = the most favored nation) thì nội dung cụ thể như sau:

Nhật Bản, theo ý nghĩa của điều khoản này, sẽ dành cho Mỹ quyền lợi đặc biệt so với các nước khác. Cũng hàm ý khi Nhật Bản ký hiệp ước với các nước khác thì sẽ không cho họ có những ưu đãi vượt lên trên những gì đã chấp thuận cho người Mỹ. Nếu trong những hiệp ước ký với người khác về sau có những gì ưu đãi hơn nội dung của Hiệp ước thân thiện Nhật Mỹ thì tức khắc nó sẽ tự động trở thành điều khoản áp dụng được cho hiệp ước Nhật Mỹ.

Chúng ta vẫn thường thấy những ví dụ cụ thể như vậy trong cuộc sống hằng ngày. Chẳng hạn như hiện tượng tiền mướn điện thoại cầm tay càng ngày càng rẻ đi. Với giả thuyết đó, tiền người ký khế ước mướn máy một năm trước phải trả lúc nào cũng cao hơn người ký kết về sau. Thế nhưng trong trường hợp "chế độ đặc biệt ưu đãi" thì người mướn điện thoại khi trước sẽ tự động được hưởng sự giảm giá, nghĩa là từ đó sẽ trả cùng một món tiền mướn như người ký khế ước sau này. Hoặc giả, người ấy còn được hãng cho mướn điện thoại bồi hoàn lại phần mà mình đã trả trội khi trước nữa. Như vậy, trong trường hợp nào, Mỹ đều có thể nắm tất cả mọi mối lợi.

Sở dĩ Mỹ đòi hỏi điều khoản đó vì họ lo rằng khi Anh, Pháp và những nước khác lần lượt kéo đến thì họ sẽ mất đi lợi thế. Có nhiều khả năng mạc phủ là sẽ ký những điều ước với nội dung thuận lợi hơn cho những nước này. Tuy nhiên, một khi đã nắm được mấy chữ "tối huệ quốc" rồi thì họ không còn phải lo lắng mai sau sẽ chịu thiệt thòi.

Hiệp ước thân thiện ấy, sau này Nhật cũng đã ký với Anh, Nga, Hà Lan. Thế nhưng Hiệp ước họ ký với Nga qua Puyaacutetin thì nội dung có hơi khác một chút bởi vì nó có bao hàm một điều khoản nói về việc phân định biên giới.

Theo đó, phần đất ở phương bắc được qui định là lãnh thổ của Nhật kể từ đảo Etorofu (Trạch Tróc) trở xuống phía Nam, còn từ đảo Uruppu (Đắc Phủ) trở lên phiá bắc là lãnh thổ của Nga. Riêng đảo Karafuto (Hoa Thái) là nơi dân chúng hai nước có thể sống tạp cư. Nơi đây, hai bên không phân biên giới và dân chúng có thể tự do chọn nơi sinh sống.

Ngoài ra, thêm một điểm nữa là người Nga được ghé Shimoda, Hakodate cũng như một cảng thứ ba là Nagasaki.

Tiết 2: Ký kết hiệp ước thông thương. Mậu dịch bắt đầu:
2.1 Hiệp ước giao hiếu và thông thương ký không đợi chiếu chỉ.

Năm 1856 (Ansei 3), Tổng lãnh sự đầu tiên của Mỹ là Townsend Harris (1804-1878) đã đến Nhật và trú tại Shimoda, hải cảng phía nam bán đảo Izu. Ông cũng là nhà ngoại giao đầu tiên của liệt cường phó nhậm ở Nhật kể từ thời mở cửa.

Townsend Harris sinh ở New York, 16 tuổi đã theo anh trai tập sự buôn đồ sứ. Về chính trị, ủng hộ Đảng Dân Chủ và có công thành lập một đại học tư thục trong tiểu bang. Năm 1849, một mình mở hãng mậu dịch với Á châu, đi nhiều nơi ở Trung Quốc, Philippin, Ấn Độ và vùng Nam Thái Bình Dương. Ông đã thành công trong việc lập hiệp định với Thái Lan (The Harris Treaty). Do giao thiệp rộng nên năm 1854 được bổ làm lãnh sự tại Ninh Ba (Trung Quốc).Tuy nhiên, lại thích làm việc tại Nhật Bản nên đã về nước vận động với Tổng thống mới lên là Ambrose Pierce để trở thành Tổng lãnh sự đầu tiên ở đây (1855).
 
Townsend Harris và nàng Okichi

Câu chuyện sau đây chỉ có tính cách cá nhân nhưng nó cũng là một chi tiết của lịch sử và đã không bị chôn vùi dưới lớp bụi của thời gian. Khi sứ thần Townsend Harris đại diện nước Mỹ đến thương thuyết với Mạc phủ, ông đã đặt bản doanh trong chùa Gyokusenji (sau đó đổi qua Zenpukuji) ở Shimoda (bán đảo Izu). Người Nhật đem một cô con gái đến để hầu hạ ông như thị nữ. Ngoài việc đó, họ có ý đồ gì khác như do thám hay không thì không biết.

Okichi - còn có tên nữa là Tôjin Okichi - nguyên họ Saitô - là một người xinh đẹp. Cô sinh năm Tenpô 12 (1841), người vùng Aichi (Nagoya bây giờ). Mười bốn tuổi, làm geisha ở Shimoda. Năm 17, người ta tuyển cô đến giúp việc cho Tổng lãnh sự Townsend Harris. Tuy nhiên, được biết rằng dù không bằng lòng và không được trả công hậu hĩ, cô cũng khó cãi lệnh nhà đương cục.

Sau khi thôi việc, cô về lại Shimoda lúc làm geisha, lúc ấy lấy chồng, làm nghề bới tóc, mở quán ăn nhưng chẳng ít lâu phải bỏ chồng, dẹp quán. Tôjin, cái tên người ta đặt thêm cho cô có nghĩa là Đường nhân (Con nhỏ lấy ngoại quốc) vốn hàm ý xúc phạm và khinh miệt. Buồn đời, cô đâm ra rượu chè, say sưa. Năm Meiji 24 (1891),cô tự trầm dưới sông, lúc ấy 50 tuổi. Cô đã sống một cuộc đời bạc phước trong biến động của lịch sử cuối Mạc phủ đầu Duy Tân, nạn nhân của quyền lực và thiên kiến. Chùa Hôgukuji (Bảo phúc tự) thương tình đem xác về chôn. Liên hệ của cô và Harris thì có nhiều lối giải thích nhưng đã được khai thác thành tiểu thuyết, phim ảnh.

Riêng về Townsend Harris, ông về nước năm 1862, chấm dứt đời hoạt động và chết ở quê nhà (1878). Khi ông mất, chính phủ Nhật Bản có gửi vật kỹ niệm (thạch đăng, đá lót đường, cây anh đào, cây dương đào...) trang trí mộ phần của ông chứng tỏ rốt cuộc, họ cũng đánh giá cao những cống hiến của ông. Tương truyền ông từng có dịp yết kiến Shôgun Iesada. Ngoài ra, ông đã hội ý với phía Nhật Bản để loại bỏ việc nhập cảng những món hàng độc hại như nha phiến vào đất Nhật.

Sứ thần Townsend Harris 
(1804-1878) lúc cuối đời
Okichi năm 19 tuổi

Điều nước Mỹ mong đợi ở Harris là ký được một Hiệp ước thông thương với người Nhật. Chúng ta nếu nhớ là Hiệp ước thân thiện giữa hai nước chưa có điều khoản nói đến việc thông thương. Tuy Perry có nhắc miệng đến việc thông thương nhưng mạc phủ gạt qua chuyện ấy và không đưa vào hiệp ước đầu tiên.

Vừa đến nơi, Harris đã bắt tay ngay vào việc thương thảo với mạc phủ về vấn đề này.

Lúc ấy, người có thực lực trong chính quyền mạc phủ không còn là Abe Masahiro. Ông ta đã về hưu. Chức Rôjuu shuza tức người đứng đầu hành chính mạc phủ nằm trong tay Hotta Masayoshi (Quật Điền Chính Mục, 1810-1864), lãnh chúa phiên Shimôsakura (17 vạn thạch, phía bắc tỉnh Chiba bây giờ).

Hotta và giới chức đứng đầu mạc phủ không có chủ trương thương thuyết với phía Mỹ. Họ nhùng nhằng ngâm nga, câu giờ, hết nêu thắc mắc này đến thắc mắc khác, có khi vấn đề đã thoả thuận rồi còn đem ra đặt lại. Trước thái độ đó, Harris không khỏi nổi giận nhưng vì bản chất kiên trì nên vẫn chịu tiếp tục thương thảo, kết cuộc đã đi đến thành công nghĩa là khiến mạc phủ chịu ký kết hiệp ước thông thương.

Tuy nhiên, không phải như thế là hiệp ước có thể đem ra thực hiện được ngay. Lúc đó, một điều ước tối quan trọng trong việc đối ngoại của quốc gia tất nhiên phải có sự phê chuẩn của triều đình tức Thiên hoàng. Quyết định của Thiên hoàng phải được cụ thể hoá

bằng một sắc dụ (chokkyo = sắc hứa). Đó chỉ là một hành động có tính cách hình thức bởi vì khó lòng triều đình lại có một hành vi đi ngược lại ý kiến của mạc phủ, trên thực chất vốn nắm quyền chính trị.

Thế nhưng việc tưởng như không thể nào có được lại xảy ra vào chính lúc đó.

Thiên hoàng đương nhiệm là Kômei (Hiếu Minh, tại vị 1846-1866, 1831-1866), một vị thiên hoàng nổi tiếng rất ghét người nước ngoài. Hơn nữa, đám công khanh chung quanh ông có nhiều kẻ chủ trương phải đuổi hết đám ngoại quốc. Tóm lại, tư tưởng "nhương di" tức bài ngoại là tư tưởng chủ đạo trong triều đình.

Vì lý do đó, vào năm 1858 (Ansei 5), khi Hotta xin phép thân chinh đến Kyôto để tâu lên triều đình, Thiên hoàng Kômei đã đưa ra một quyết định hiếm có là cự tuyệt lời xin. Hotta chưng hửng vì ông không dè. Ông bèn làm đủ mọi cách, nhờ cả tay trong để nói giùm, nhưng vẫn không được nhà vua chấp nhận. Điều đó đã khiến cho uy tín chính trị của ông đối với người của mạc phủ cũng bị lung lay.

Trong hệ thống hành chánh của mạc phủ thì chức Tairô (Đại lão) là lớn hơn cả. Thế nhưng thông thường người ta không cần đặt một chức cao như thế. Chức ấy chỉ được đặt ra vào những lúc khẩn cấp. Suốt thời Edo gần 3 thế kỷ chỉ có 10 người được bổ nhiệm vào chức đó.

Tư tưởng "nhương di" cắm rễ quá sâu làm cho triều đình tỏ ra từ chối hiệp ước thông thương. Ngoài ra, giữa lúc ngặt nghèo ấy, trong nội bộ mạc phủ còn có vụ tranh chấp ngôi vị Shôgun. Vấn đề chất cao như núi. Mạc phủ bèn bàn với nhau mời Ii Naosuke (Tỉnh Y, Trực Bật, 1815-1860), lãnh chúa phiên Hikone (ăn lộc 35 vạn thạch, thuộc tỉnh Shiga ven hồ Biwa), một người có tiếng giỏi lãnh đạo, về lãnh chức Tairô với trọng trách giải quyết một loạt những vấn đề rối rắm.

Chính ra Ii Naosuke là người vốn có rất ít sác xuất để trở thành lãnh chúa một phiên chứ đừng nói chi đến chức Tairô. Bởi lẽ ông là con trai thứ 14 trong nhà, mà ở Nhật, làm thân con thứ chịu rất nhiều thiệt thòi. Trên ông, còn có 13 người anh thì việc nối nghiệp nhà làm sao tính tới lượt mình.Thế nhưng, các anh lớn lần lượt chết đi hay sang nhà khác làm dưỡng tử (để có hy vọng thế tập), ông đột nhiên được ngồi vào ngôi vị lãnh chúa của phiên, Lúc ấy ông đã ngoài xa cái tuổi 30.

Thời đó, nếu không đi làm dưỡng tử nhà ai, một anh con trai nhà lãnh chúa như ông thường có lắm thời giờ, không biết phải làm gì. Khác thiên hạ, ông được cái chịu khó dùng thời gian rỗi rãnh để học tập, hết quốc ngữ đến thiền, kiếm đạo và trà cũng như vô số ngành nghề khác. Đến khi trở thành người lãnh đạo của phiên, ông biết đem học vấn đã hấp thụ được lúc còn trẻ dùng vào việc cai trị và nổi tiếng là một minh quân. Thế mới biết định mệnh một con người là cái khó lòng tiên đoán được.

Ii Naosuke ngồi chưa ấm chỗ cái ghế Tairô thì tháng 6 năm 1858 (Ansei 5) đã phải giải quyết vấn đề hiệp ước.Ông quyết định đóng dấu vào bản Hiệp ước giao hiếu thông thương đó cho dầu không có sắc dụ thỏa thuận của Thiên hoàng.

Quyết đoán của Ii Naosuke, như người ta hiểu, đã bị ảnh hưởng bởi một biến cố chính trị gọi là Vụ xung đột vì tàu Arrow (The Arrow War) mà người ta còn gọi là Cuộc chiến tranh nha phiến thứ hai (The Second Opium War). Biến cố này sinh ra từ việc chiếc tàu buồm nhỏ của người Anh mang tên là Arrow vào tháng 3 năm 1856 (Ansei 3) nghi ngờ là tàu hải tặc, bị quan chức nhà Thanh khám xét ở Quảng Đông, Nổi giận, người Anh mới cùng với người Pháp giở đến giải pháp quân sự đối với Quảng Đông và nhân đấy, xâm nhập cả tỉnh Thiên Tân[3] .

Liên quân Anh Pháp lợi dụng cơ hội này để thúc bách Trung Quốc của nhà Thanh phải ký một hiệp ước hết sức bất bình đẳng. Rốt cuộc, tháng 6 năm 1858, Trung Quốc đã bị ép ký Điều ước Thiên Tân. Harris bèn đưa vụ Arrow này ra để thuyết phục mạc phủ hãy coi chừng sự uy hiếp của Anh Pháp, nhắc họ thà ký kết giao hiếu với Mỹ còn có lợi hơn.

Điều ấy có nghĩa là Harris đưa ra lời hứa: "Nếu Mỹ là nước đầu tiên ký với Nhật một điều ước, nó sẽ trở thành một tiền lệ. Trong trường hợp Anh Pháp, những kẻ đến sau, có thôi thúc Nhật ký một điều ước quá sức bất bình đẳng thì Mỹ sẽ cương quyết đứng ra ngăn chặn cho".


Ký kết điều ước Thiên Tân (06/06/1859) sau vụ tàu Arrow (1856)

Có lẽ chính vì thấy nó có lý mà Ii Naosuke đã bằng lòng phê chuẩn hiệp ước, không đợi sắc dụ của Thiên hoàng.

Tuy nhiên, quyết định độc đoán như thế của Ii Naosuke đã làm cho triều đình với đa số là phần tử có tư tưởng "nhương di" đùng đùng nổi giận. Diễn biến của nó để trở thành một đại vấn đề như thế nào, ta sẽ khai triển trong những trang sau. Chúng ta chỉ biết kể từ hiệp ước đó, Nhật và Mỹ đã bắt đầu có những hoạt động mậu dịch với nhau.

Riêng về nội dung của văn bản gọi là Hiệp ước giao hiếu và thông thương Nhật Mỹ, đại khái có 5 điểm sau đây là quan trọng hơn cả:

1) Nhật mở cửa cho Mỹ các hải cảng ở Kanagawa, Nagasaki, Niigata, Hyôgo và hai đô thị Edo và Ôsaka.

2) Việc thông thương có nghĩa là mậu dịch được tự do.

3) Mở những nơi cư trú cho người ngoại quốc ở các bến cảng nhưng họ không được đi lại trên toàn quốc.

4) Thừa nhận quyền lãnh sự tài phán (trị ngoại pháp quyền).

5) Thừa nhận chế độ quan thuế theo hiệp định (Nhật Bản không có chủ quyền về quan thuế).

Ta hãy thử trình bày rõ hơn về các điểm từ (1) đến (5).

(1) Nơi mở cửa ở Kanagawa là Yokohama, còn ở Hyôgo là Kobe, hai địa điểm này nằm sát nách với chúng nhưng không phải là chúng.

Tại sao có sự đổi thay như vậy? Kanagawa vốn là một nhà trạm (shukueki = túc dịch) trên trục giao thông chính của Nhật Bản tức tuyến đường Tôkaidô (Đông Hải Đạo). Mạc phủ không muốn cho người ngoại quốc và người Nhật Bản gặp gỡ thường xuyên ở một nơi đông người qua lại như thế nên mới chọn Yokohama là một ngôi làng nhỏ, hẻo lánh, mở một bến cảng rồi vờ nói đây là cảng của Kanagawa. Trước việc này, người nước ngoài rất phẫn nộ, cho rằng mạc phủ đã lừa dối họ, thế nhưng cuối cùng cũng phải chấp nhận. Chính vì Yokohama thực ra là một hải cảng rất tốt, thương nhân ngoại quốc hết sức hài lòng. Tuy là chuyện về sau nhưng nên biết rằng, kể từ đấy, các thương quán (shôkan) ngoại quốc sẽ lần lượt được mở ra ở Yokohama. Ngày nay nó đã trở thành một hải cảng mậu dịch quốc tế lớn nhất của Nhật Bản.

Nửa năm sau khi cảng Yokohama mở ra (1859, Ansei 6), hải cảng Shimoda không được dùng nữa. Việc đóng cửa cảng này cũng được minh định trong Hiệp ước giao hiếu và thông thương Nhật Mỹ.

Hai cảng Niigata và Hyôgo (Kobe) theo qui định sẽ được tuần tự mở ra vào năm 1860 (Man.nen nguyên niên) và 1863 (Bunkyuu 3) nhưng đến kỳ hạn, Niigata vẫn chưa thi công tu bổ cho xong nên phải dời đến năm 1868 (Meiji nguyên niên), còn Hyôgo (Kobe) thì đã mở khi có sắc dụ chính thức tức vào năm 1867 (Keiô 3).

Sở dĩ việc khai cảng ở Hyôgo cũng bị thực hiện chậm trễ là vì Thiên hoàng Kômei e sợ rằng Hyôgo quá gần với Kyôto, việc người ngoại quốc đổ bộ lên sẽ gây ra sự hỗn loạn và chướng tai gai mắt.

(2) Mậu dịch giữa hai bên sẽ được hoàn toàn tự do. Ai cũng biết đây là đòi hỏi số một của người Mỹ. Viên chức mạc phủ không có quyền can thiệp vào mọi hành động buôn qua bán lại

(3) Khu vực cư trú (kyoryuuchi = cư lưu địa) có thể hiểu là khu vực mà người ngoại quốc có thể cư trú và buôn bán.

(4) (5) Hai điều khoản này có thể gom lại làm một vì có đặc điểm chung là rất bất lợi cho phía Nhật Bản. Chính vì để xóa bỏ hai điều khoản này mà về sau chính phủ Meiji phải tốn biết bao nhiêu công sức trong thương thuyết ngoại giao.

Quyền lãnh sự tài phán: Cho đến này quyền này vẫn được xem như một bộ phận của trị ngoại pháp quyền. Theo đó người ngoại quốc sống ở Nhật nhưng trong khu vực cư trú dành cho họ (kyoryuuchi) nếu phạm tội thì sẽ được xử tội bởi người lãnh sự của nước đó tại Nhật Bản, nghĩa là theo luật của ngoại quốc. Nói cách khác, khi người ngoại quốc làm điều quấy ở Nhật, chính phủ Nhật không có quyền xét xử.

Đây rõ ràng là một điều khoản xâm phạm tới chủ quyền của Nhật Bản nhưng có thuyết cho rằng, trong khi đàm phán về điều ước, viên chức mạc phủ đã không dè hậu quả nghiêm trọng đến như vậy. Họ có thể đã nghĩ đơn sơ rằng "việc xử kiện một người nước ngoài quả là phức tạp cho mình, chi bằng giao cho lãnh sự của họ thì khoẻ thân hơn" và tỏ ra tích cực trong việc thừa nhận quyền lãnh sự tài phán này.

Chế độ hiệp định quan thuế: Đây là điều bất bình đẳng thứ hai. Nói về nguyên tắc của quan thuế thì nó là một biện pháp đánh thuế nhằm phòng chống việc thương phẩm của nước ngoài với giá rẻ ồ ạt nhập vào khiến cho sản phẩm làm ra trong nước không bán được và kinh tế bị xấu đi.

Chẳng hạn khi một quả táo ở Nhật được bán với giá 150 Yen và một quả táo nhập từ Mỹ là 100 Yen với mùi vị, hình dạng, phẩm chất đều giống nhau thì người tiêu thụ có khuynh hướng mua táo Mỹ vì nó giá rẻ hơn. Nhà nông Nhật Bản sẽ bị khốn đốn. Điều này không chỉ xảy ra cho mỗi trường hợp của quả táo mà có thể áp dụng vào trường hợp tất cả các sản phẩm khác. Để tránh sự bất lợi đó, dĩ nhiên chính phủ Nhật phải đánh thuế nhập khẩu hòng cứu nhà nông Nhật Bản.

Việc đánh thêm 50 Yen quan thuế để hai quả táo có cơ hội đồng đều trước mắt người tiêu thụ hay một số thuế nào đó để quả táo Nhật Bản được coi như là rẻ hơn là quyền ấn định mức độ quan thuế. Thế nhưng theo tinh thần của chế độ hiệp định quan thuế Nhật Mỹ trên đây thì Nhật không có quyền quyết định một mình nữa cho dầu việc mậu dịch xảy ra trong phạm vi lãnh thổ của mình.

Hiệp định cho thấy kể từ khi ký kết, mỗi khi ấn định quan thuế, Nhật Bản phải có được sự đồng ý của Mỹ. Đối với Nhật, đây là bằng cớ của sự mất chủ quyền.

Năm 1860 (Man.nen nguyên niên), viên trưởng quan chuyên trách vấn đề về người ngoại quốc (gaikoku bugyô = ngoại quốc phụng hành) là Shinmi Masaoki (Tân Kiến, Chính Hưng, 1822-1869) được gửi đi như đặc sứ toàn quyền, đáp tàu Mỹ sang Washington để trao đổi điều ước đã phê chuẩn, có dịp yết kiến Tổng thống Mỹ James Buchanan (1791-1868). Ông là sứ giả Nhật Bản đầu tiên sang Mỹ vậy. Nhân đó, cũng nên nhắc đến việc nhà hàng hải Katsu Kaishuu (Thắng, Hải Chu, 1823-1899) là người Nhật đầu tiên làm hạm trường, đưa chiếc tàu Nhật Kanrin-maru (Hàm Lâm hoàn) - quân hạm của mạc phủ chạy bằng hơi nước đặt người Hà Lan đóng xong năm 1857 - vượt Thái Bình Dương để đến đất Mỹ như tàu tháp tùng sứ thần Shinmi Masaoki. Đó cũng là việc đáng kể xảy ra dưới thời này.

Cuối cùng, Nhật Bản không những ký kết hiệp ước với Mỹ mà thôi nhưng sau đó đã lần lượt ký kết với Anh, Nga, Hà Lan và Pháp cùng nội dung. Sử gọi đây là Điều ước 5 nước năm Ansei (Ansei gokakoku jôyaku = An Chính ngũ cá quốc điều ước). Từ đó, liệt cường bắt đầu giao thiệp mậu dịch với Nhật Bản. Hãy xem diễn tiến của nó như thế nào?

2.2 Mậu dịch tự do bắt đầu và ảnh hưởng của việc này:

Kể từ năm 1859 (Ansei 6), các cường quốc bắt đầu thông thương với Nhật Bản. Trên nguyên tắc, mậu dịch giữa hai bên thương nhân được hoàn toàn tự do, quan chức mạc phủ không nhúng tay vào.

Tính ra, tổng ngạch xuất khẩu trong năm 1859 chỉ có khoảng 89 vạn đô-la Mỹ, còn tổng ngạch nhập khẩu là 60 vạn. Thế nhưng chỉ vài năm sau những con số này đã nhảy vọt. Năm 1865 (Keiô nguyên niên) tổng ngạch xuất khẩu là 1.850 vạn đô-la Mỹ và tổng ngạch nhập khẩu là 1.515 vạn.

Hàng xuất khẩu đứng đầu của Nhật là tơ sống (ki-ito). Khi con tằm (kaiko, silkworm) ở giai đoạn ấu trùng biến thành nhộng (sanagi, pupa), nó sẽ tạo thành một cái kén (mayu, cocoon) màu trắng rất đẹp bao quanh mình. Những sợi tơ quấn chung quanh kén gọi là tơ sống (ki-ito, raw silk). Tơ sống chiếm đến 8/10 số hàng xuất khẩu. Do đó những nhà nông chuyên về ngày nuôi tằm trở nên rất khá giả và ở vùng nông thôn, mạng lưới thủ công nghiệp chế tơ sống (manufacture) đã thành hình.

Hàng xuất khẩu đứng hạng hai là trà. Nó chiếm khoảng 1/10 số sản phẩm xuất khẩu.

Ngoài ra là các phẩm vật như hải sản và giấy trứng tằm (sanranshi = silkworm-egg card) tức loại giấy lót ổ nơi tằm đẻ trứng. Sở dĩ các cường quốc nhập khẩu loại giấy này là vì ở Pháp và YÙ, nơi người ta cũng sản xuất tơ sống, thường có bệnh dịch làm tiêu diệt tằm của họ nên họ phải gầy dựng lại. Do đó, có thể nói hơn phân nửa tằm của Âu châu có thủy tổ là những con tằm đến từ Nhật Bản.
 
Phân loại hàng xuất nhập khẩu của Nhật năm 1865[4]
Hàng xuất Tỷ lệ Hàng nhập Tỷ lệ
1 Tơ sống 79,40% Hàng len 40,30%
2 Trà 10,50% Hàng vải vóc 33,50%
3 Giấy lót ổ tằm 4,00% Võ khí 7,00%
4 Hải sản 3,00% Tàu chiến 6,3%
5 Các loại khác 3,10% Tơ sợi 5,80%
6 Các loại khác 1,7%
Tổng số 100% Tổng số 100%

Mặt khác, những món hàng nhập khẩu thì hầu hết là hàng len và vải vóc tức loại hàng may mặc.

Đặc biệt, mặt hàng vải vóc đã tiến triển rất nhanh từ cuối đời mạc phủ bước thời Meiji sơ kỳ.Có thời kỳ số vải vóc nhập khẩu này chiếm đến 40% thị trường quốc nội nghĩa là hầu như độc chiếm.

Như thế, hàng vải vóc giá rẻ của ngoại quốc đã được nhập vào với số lượng đáng kể và lan tràn thị trường Nhật Bản. Hàng quốc nội vì giá cao nên không bán được. Ngành dệt cũng như ngành may mặc và cả ngành trồng bông (nguyên liệu để chế biến ra vải) đều đã suy sụp dính chùm với nhau.

Thế nhưng ngành dệt và ngành may mặc tưởng chừng bị một tai họa như trời giáng và không tài nào ngóc đầu lên nổi, sang đến thập niên 1890 tức đầu thời Meiji, đã phục hồi được nhờ biết nhập cảng bông vải từ ngoại quốc và lợi dụng sức lao động rẻ của mình. Họ đã có thể sản xuất với sản lượng lớn tơ sợi và vải vóc với chất lượng tốt, rồi xuất khẩu ngược lại ra ngoài. Đặc biệt, kể từ đó, tơ sợi đã trở thành món hàng xuất khẩu số một của Nhật Bản.

Về hàng nhập khẩu thì võ khí và tàu chiến là hai món hàng được yêu chuộng nhất. Nó cho ta thấy tình huống của xã hội Nhật Bản vào cuối đời mạc phủ.

Nếu nhìn tổng thể nghĩa là vừa các mặt hàng xuất cũng như nhập khẩu, chúng ta nhận thấy một điều rõ rệt là Nhật Bản bán ra những bán thành phẩm (hanseihin) và mua vào những thương phẩm đã hoàn thành (kanseihin).

Nước buôn bán nhiều nhất với Nhật lúc đó chính ra không phải là Mỹ mà là Anh.Tại sao lại như thế. Lý do là Mỹ đã mắc kẹt trong Cuộc nội chiến Nam Bắc (The Civil War, 1860-65) cho nên không thể thông thương như ý muốn.

Về giao dịch giữa các nước ở Nhật thì hơn 9/10 số lượng đã thông qua hải cảng Yokohama. Điều quan trọng phải để ý khi nói đến mậu dịch thời ấy là khuynh hướng xuất siêu áp đảo của buổi đầu (1859, Ansei 6) đã nhường bước cho khuynh hướng nhập siêu càng ngày càng rõ rệt kể từ năm 1866 (Keiô 2). Lý do là Nhật Bản đã bắt buộc hạ thuế nhập khẩu từ 20% (với vài ngoại lệ) xuống còn 5%.

Như đã nói đến bên trên, Nhật bản không có quyền quyết định quan thuế và phải theo chế độ hiệp định, thương thảo về thuế suất với các cường quốc. Với lý do là đã chậm trễ trong việc mở cửa cảng Hyôgo như đã qui định, năm 1866, mạc phủ lại phải ký thêm một ước thư (written pact) gọi là kaizei yakusho (Cải thuế ước thư) để hứa hạ thấp thuế suất thêm nữa và cùng lúc, triệt bỏ mọi chế độ có thể cản trở tự do mậu dịch.

Và như thế, hàng giá rẻ của nước ngoài lại ùn ùn đổ vào Nhật làm tăng vọt kim ngạch hàng nhập khẩu.

Bây giờ, chúng ta hãy thử xem việc bắt đầu mậu dịch với nước ngoài đã ảnh hưởng đến nội tình Nhật Bản như thế nào?

Trước tiên, phải nói nó đã đưa đến việc vật giá trở nên đắt đỏ (bukkadaka).

Bởi vì thời Edo, mọi thứ hàng hóa đem lên thành phố lớn như Edo hay Ôsaka đều được những nhà buôn sỉ (tonya) thu thập lại từ nơi sản xuất. Các nhà buôn sỉ sẽ cung cấp cho các người làm môi giới tức con buôn trung gian (nakagai) sau qua tay các con buôn lẻ (ko.uri) để đến tay người tiêu dùng. Hệ thống phân phối hàng hóa đã theo một tuần tự quen thuộc như vậy.

Nay thì vì hai mặt hàng xuất khẩu là tơ sống và trà quá được yêu chuộng làm đẻ ra một loại con buôn cư trú tại chỗ (zaigô shônin = tại hương thương nhân) mua thẳng tơ sống và trà từ tay nhà nông, lấy mất chỗ của các con buôn sỉ. Con buôn cư trú tại chỗ chở thẳng hàng ra hải cảng để bán cho người nước ngoài. Hệ thống lưu thống hàng hoá như vậy đã bị gãy đổ, người tiêu thụ trong các thành phố lớn không tìm đâu ra tơ sống và trà nay trở thành hàng hiếm, muốn có phải trả giá đắt. Và như một chuỗi dây chuyền, các mặt hàng khác cũng chịu ảnh hưởng chung mà lần lượt lên giá.

Do đó chỉ trong vòng có mấy năm mà những mặt hàng nhu yếu đã tăng giá lên nhiều lần, làm cho sinh hoạt của dân chúng trở thành khó khăn. Mạc phủ bèn tìm cách hạ bớt giá xuống. Năm 1860 (Mannen nguyên niên), họ ban lệnh Gohin Edo kaisôrei (Ngũ phẩm Giang Hộ hồi tống lệnh, Năm mặt hàng phải chở trở lại Edo). Những mặt hàng đó là tạp cốc, dầu nước (dầu xức tóc hoặc dầu thắp), sáp ong, quần áo ta, tơ sống. Năm mặt hàng đó bắt buộc phải qua tay các nhà buôn sỉ rồi mới được đem đi xuất khẩu. Tuy nhiên, các cường quốc lẫn những con buôn cư trú tại chỗ đã phản đối kịch liệt nên lệnh này vẫn không đạt được hiệu quả mong muốn.

Nguyên nhân khiến vật giá gia tăng còn nằm ở một chỗ khác. Đó là việc đúc lại hóa tệ. Năm 1866, mạc phủ đã cho đúc đồng koban (tiểu phán, oval gold coin) mới với hàm lượng vàng chỉ còn một phần ba của đồng tiền cũ. Điều đó làm giá trị của đồng koban chỉ còn một phần ba. Nó khiến cho vật giá cứ thế mà tăng lên.

Sở dĩ mạc phủ bắt buộc thi hành một chính sách như thể thúc đẩy lạm phát do mậu dịch sinh ra bởi vì họ có cái lý do riêng của họ.

Tỷ giá kim ngân giữa Nhật Bản và ngoại quốc vốn không giống nhau.Khi trao đổi vàng và bạc thì phía ngoại quốc áp dụng tỷ lệ 1:15 (một vàng ăn 15 bạc), trong khi Nhật chì áp dụng tỷ lệ 1:5 (một vàng ăn năm bạc). Nếu thuyết minh bằng đơn vị đo lường thì ở ngoại quốc, khi một người muốn mua 1g vàng, anh ta phải trả bằng 15g bạc.Trong lúc đó, ở Nhật, chỉ cần đem 5g bạc ra mà trả thì sẽ có 1 g vàng vào túi.

Do đó, khi nmậu dịch giữa hai bên bắt đầu, thương nhân ngoại quốc mang bạc vào Nhật để mua vàng của người trong nước, rồi lại dùng vàng vừa mua được đổi lấy bạc ở nước ngoài. Tiếp theo, họ dùng bạc ấy để mua hàng ở Nhật. Sau một thời gian mua đi bán lại như thế, họ lời ức vạn.

Nếu trình bày cụ thể hơn nữa thì nếu đem 5g bạc từ nước ngoài vào Nhật, thương nhân ngoại quốc sẽ có được 1g vàng.Anh ta đem qua Âu châu sẽ đổi được 15g bạc.Anh tiếp tục mang 15g bạc ấy vào Nhật đổi thành 3g vàng, rồi lại ra nước ngoài đổi 3 g vàng ấy mà lấy 45g bạc. Cứ trao đổi đơn thuần như thế thôi, sau nhiều lần, tư sản của anh ta sẽ phồng lên rất to. Mạc phủ sau đó đã nhận ra điều ấy nên mới cho đúc lại (kaichuu = cải chú) đồng koban nhưng đã quá trễ vì họ đã thất thoát ra nước ngoài một số quí kim trên 10 vạn lượng bạc.

Dù sao chăng nữa, mậu dịch đã trở thành nguyên nhân của việc gia tăng vật giá, khiến cho đời sống của người thường dân Nhật Bản trở nên khó khăn. Họ bắt đầu chán ghét hoạt động mậu dịch. Điều đó lại khiến cho cuộc vận động "nhương di" (bài xích, đánh đuổi người ngoại quốc) có thêm một lý lẽ mới nữa.

Tiết 3: Những cuộc vận động chính trị cuối thời mạc phủ:
3.1 Cải cách năm Ansei của Abe Masahiro và chính trị cứng rắn của Ii Naosuke:

Tạm rời câu chuyện kinh tế, chúng ta hãy quay trở lại sân khấu chính trị đương thời để xem những diễn biến của nó.

Khi Đề đốc Perry đưa hạm đội đến, người đang điều khiển chính trị mạc phủ là Abe Masahiro (An Bộ, Chính Hoằng, 1819-1857).Trước quốc nạn là việc người ngoại quốc đòi mở cửa thông thương, ông đã cương quyết thi hành một chính sách cải cách. Chính sách cải cách chính trị mạc phủ mang tên Ansei kaikaku (Cuộc cải cách năm An Chính, 1855-1860).


Abe Masahiro (1819-1857)

Điểm then chốt của cuộc cải cách là tăng thêm sức mạnh quân sự.Tưởng tượng đến khả năng xung đột với nước ngoài, Abe nghĩ đến trước tiên việc xây pháo đài để phòng thủ vùng vịnh Edo. Đó là những pháo đài được xây dựng trên một số hòn đảo nhân tạo trên mặt biển. Họ gọi đó là những "ụ đặt trọng pháo" (daiba = đài trường) Ngày nay ở thành phố Tôkyô vẫn còn di tích các nơi gọi là daiba ấy và Daiba kôen (Công viên Daiba) trở thành một địa điểm du lịch và sinh hoạt của người dân thủ đô.

Việc làm thứ hai của Abe bãi bỏ lệnh cấm việc xây những thuyền lớn vốn đã bị mạc phủ qui định trong một thời gian dài. Nếu chỉ trang bị bằng thuyền nhỏ, Nhật Bản không thể nào đương đầu nổi với hạm đội vỏ bọc thép của ngoại quốc, do đó các phiên trấn mới bắt đầu đóng thuyền lớn (taisen = đại thuyền).Để có người biết sử dụng tàu thủy chạy bằng hơi nước, một trường dạy lái tàu đã được lập ra ở Nagasaki.Trường có tên Sở tập luyện của hải quân (Kaigun denshuusho = Hải quân truyền tập sở), mời những sĩ quan ưu tú của hải quân Hà Lan đến giảng dạy.

Trước đây có lần nhắc đến việc người Nhật gửi sứ thần Shinmi Masaoki sang Mỹ nhân việc phê chuẩn Hiệp ước giao hiếu và thông thương. Đó là chuyện xảy ra vào năm 1866 (Mannen nguyên niên) và đã có một chiếc tàu Nhật bồi tống sứ giả, đó là chiếc Kanrinmaru do Katsu Kaishuu (Thắng, Hải Chu, tức Katsu Yoshikuni, còn gọi là Rintarô) làm hạm trưởng và đã thành công trong việc vượt Thái Bình Dương để đến đất Mỹ. Kaishuu là sinh viên tốt nghiệp trường này vậy. Sau ông hãy còn có những đàn em ưu tú như Enomoto Takeaki ("Hạ" Mộc, Vũ Dương, 1836-1908), một sĩ quan hải quân cao cấp của mạc phủ một thời cố thủ trong thành năm góc (Goryôkaku = Ngũ Lăng Quách) ở Hakodate để đối địch với lực lượng tôn vương.
Những sự kiện trọng yếu cuối đời Mạc phủ Edo
Thiên hoàng Thời điểm Sự kiện Shôgun

Tokugawa

Kômei
(Hiếu Minh)
3/1854 Ký hiệp ước thân thiện Nhật Mỹ (Hiệp ước Kanagawa) Iesada
(Gia Định, thứ 13)
7/1856 Tổng lãnh sự Mỹ Townsend Harris đến Nhật nhậm chức
2/1858 Hotta Masayoki bị triều đình từ chối chuẩn y hiệp ước
4/1858 Ii Naosuke được mời làm Tairô
6/1858 Hiệp ước giao hiếu thông thương Nhật Mỹ thành hình. Việc chỉ định người kế vị Shôgun trở thành một vấn đề.
9/1858 Vụ án đại ngục năm Ansei (kéo dài đến 1859)
1/1860 Andô Nobumasa trở thành Rôjuu
3/1860 Cuộc tập kích ngoài cổng Sakuradamon, ám sát đại thần Ii Naosuke Iemochi
(Gia Mậu, thứ 14)
3 nhuận / 1860 Lệnh bắt buộc phải đưa 5 mặt hàng cơ bản về Edo (Gohin Edo kaisôrei)
10/1861 Quyết định gả công chúa Chikako cho Shôgun Iemochi 
1/1862 Cuộc biến loạn ngoài cổng Sakashitamon, làm đại thần Ando Nobumasa bị thương.
5/1862 Lãnh chúa Shimadzu Hisamitsu yêu cầu thi hành cuộc cải cách năm Bunkyuu
8/1862 Sự kiện sát thương người Anh ở khu vực Namamugi (thuộc Yokohama)
4/1863 Mạc phủ định ngày 10 tháng 5 sẽ ra lệnh đánh đuổi người ngoại quốc (nhương di)
5/1863 Phiên Chôshuu (Trường Châu) pháo kích tàu ngoại quốc ở Shimonoseki (Hạ Quan, Mã Quan).
7/1863 Chiến tranh giửa phiên Satsuma và người Anh bùng nổ (Satsuei sensô).
8/1863 Chính biến ngày 18 tháng 8.
6/1864 Vụ tập kích phiên sĩ Chôshuu ở quán Ikedaya.
7/1864 Cuộc biến loạn ở Cấm môn (Kinmon tứcHamaguri Gomon) 
8/1864 Cuộc chinh phạt phiên Chôshuu lần thứ nhất (cho đến tháng 12). Hạm đội bốn nước pháo kích Shimonoseki.
9/1865 Hạ chìếu chinh phạt Chôshuu lần thứ hai.
1/1866 Liên minh cuảa 2 phiên Satsuma-Chôshuu thành hình.
5/1866 Phê chuẩn ước thư cải cách thuế má.
6/1866 Cuộc chinh phạt Chôshuu lần thứ hai (đến cuối tháng 8)
12/1866 Shôgun Yoshinobu nhậm chức. Thiên hoàng Kômei (Keiô là niên hiệu của ông) băng hà. Yoshinobu (KhánhHỷ, thứ 15)
Meiji (Minh Trị) 5/1867 Hạ chiếu mở cửa cảng Hyôgo
14/10/1867 Thiên hoàng hạ mật chiếu "thảo mạc" cho 2 phiên Satsuma và Chôshuu. Shôgun Yoshinobu dâng biểu xin trao trả chính quyền cho nhà vua (Đại chính phụng hoàn = Taisei hôkan).
12/1867 Bố cáo thiên hạ sắc lệnh phục hồi vương quyền (Ôsei fukko = Vương chính phục cổ). Hội nghị tiểu triều đình Kogosho (Tiểu Ngự Sở) xử lý số phận mạc phủ.
1/1868 Xung đột ở Toba và Fushimi. Chiến tranh Boshin (Mậu Thìn) bùng nổ.

Mạc phủ lại có chính sách mới là mở Kôbusho (Giảng võ sở) để dạy mạc thần không những đao thương kiếm kích mà cả pháo thuật và thao diễn quân sự kiểu Âu Mỹ. Họ mở Bansho shirabe (Man thư điều sở) để phiên dịch văn thư ngoại giao, cũng là nơi để dạy khoa học kỹ thuật phương tây, Lan học và Anh học.

Cải cách nói trên của mạc phủ đã ảnh hưởng mạnh đến các phiên trấn. Do đó, không thiếu chi những phiên bắt đầu đẩy mạnh việc chế tạo các khẩu trọng pháo, xây lò phản xạ (reberberatory furnace) và tăng cường sức mạnh quân sự của mình.

Cuộc cải cách năm Ansei còn có một sự kiện nổi bật nữa. Đó là việc cực lực thu dụng nhân tài. Abe Masahiro đã tìm ra và đề bạt những mạc thần có khả năng như Nagai Noayuki (Vĩnh Tĩnh, Thướng Chí), Iwase Tadanari (Nham Lại, Trung Chấn), Kawaji Toshiakira (Xuyên Lộ, Thánh Mô) vào các chức vụ quan trọng, mong sao đưa nước nhà thoát khỏi cảnh hiểm nghèo. Ngoài ra, ông còn mời lãnh chúa đời trước của phiên Mito (một thân phiên trong tam gia tức chỗ họ hàng ruột thịt của nhà chúa) là Tokugawa Nariaki (Đức Xuyên Tề Chiêu, 1800-1860) tham gia chính trị của mạc phủ. Ông cũng kêu gọi sự hiệp lực của lãnh chúa Echizen (cũng là thân phiên) là Matsudaira Yoshinaga (Tùng Bình, Vĩnh Khánh, 1828-1890), lãnh chúa phiên Uwajima (một tozama, ngoại phiên) là Date Munenari (Y Đạt, Tông Thành, 1818-1892), người nổi tiếng là một danh quân.

Tuy vậy, việc các lãnh chúa các thân phiên đứng ngoài hàng fudai (phổ đại, tổ tiên theo nhà chúa từ trước trận Sekigahara) và các lãnh chúa ngoại phiên (chỉ theo về từ sau trận ấy) là một điểm đáng lưu ý vì cho đến lúc đó, họ không có quyền phát ngôn. Điều này chứng tỏ những người này đã bắt đầu có sức mạnh chính trị thực sự.

Năm 1855 (Ansei 2), Abe bỗng nhiên nhường chức Rôjuu thứ nhất (thủ tọa) cho Hotta Masayoshi (Quật Điền Chính Mục, 1810-1864), rời khỏi chính trường và chỉ hai năm sau thì bị bệnh mà mất. Ông hãy còn trẻ, lúc ấy mới có 39 tuổi.


Hotta Masayoshi (1810-1864)
Như đã nói đến bên trên, Hotta là người không được triều đình chấp thuận ban sắc dụ để chuẩn y hiệp ước đã ký với liệt cường, cho nên phải mất chức.Thay thế ông thi hành mạc chính và ở ngôi Tairô (Đại lão), cao nhất trong hàng mạc thần là Ii Noasuke (Tỉnh Y, Trực Bật, 1815-1860).

Ông Ii đã xử lý một cách độc đoán hai vấn đề của lúc ấy. Một là ông đóng dấu vào Hiệp ước giao hiếu thông thương Nhật Mỹ mà không đợi sắc dụ của Thiên hoàng. Đó là điều mà chúng ta đã một lần đề cập tới bên trên. Hai là coi thường ý kiến các trọng thần trong vấn đề chọn người kế vị chức Shôgun.

Đương thời, mạc phủ đang gặp khó khăn trong việc tìm người kế vị cho Shôgun đời thứ 13 là Iesada (Gia Định, tại chức 1853-1858, 1824-1858). Iesada không có con trai. Mạc phủ buộc lòng đưa một người tuổi đã ngoài 30 lên kế nghiệp. Ông ta lại vừa mới cưới vợ xong nên chưa biết chắc mười phần là có khả năng có con nối dõi hay không nữa. Thế nhưng sao lại đưa vấn đề này ra bàn ở đây?

Lý do là Iesada khi mới sinh ra, thân thể đã hết sức bạc nhược. Ngồi cho ngay ngắn còn không được và có thể lăn ra chết bất cứ lúc nào. Thêm nỗi, ông không đủ sức có con. Tin tức đó từ hậu cung (Ôku) đã lọt ra ngoài nên lúc ông còn sống, vấn đề kế tự đã được đặt ra.


Ii Naosuke (1815-1860)

Trước khi Ii Naosuke được cử vào chức Tairô, bên trong mạc phủ đã xuất hiện hai phái đối lập chung quanh việc kế tự của Iesada rồi. Đó là phái Hitotsubashi và phái Nanki.

1) Phái Hitotsubashi (Nhất Kiều) tức là phái muốn đưa Hitotsubashi Yoshinobu (cũng gọi là Tokugawa Yoshinobu hay Keiki, Đức Xuyên Khánh Hỷ, con trai thứ 7 của Tokugawa Nariaki, tiền lãnh chúa phiên Mito) lên làm Shôgun. Thế lực chủ chốt của nhóm này là Matsudaira Yoshinaga, Shimadzu Nariakira (phiên Satsuma)...tức là những lãnh chúa đã từng giúp việc cho Abe Masahiro. Họ đều nghĩ rằng một người đã đến tuổi trưởng thành, thông minh và chững chạc như Yoshinobu lên làm Shôgun thì có thể tích cực thi hành mạc chính và đưa Nhật Bản thoát khỏi quốc nạn.

2) Phái Nanki (Nam Kỷ) gồm những lãnh chúa fudai vốn không thích thay đổi, coi việc truyền ngôi giữa các Shôgun phải đúng với truyền thống nghĩa là người lên nối nghiệp Shôgun đời trước phải có liên hệ huyết thống gần gủi với ông đó. Theo họ, trong trường hợp này thì lãnh chúa phiên Kii là Tokugawa Yoshitomi (Đức Xuyên Khánh Phúc, 1846-1866) - em họ của Iesada - mới xứng đáng với chức vụ. Khốn nỗi, Yoshitomi lúc ấy hãy là một cậu con nít.

Nhưng vấn đề lớn hơn hết chính là bản thân Ii Naosuke. Ông được coi như nhân vật trung tâm của phái Nanki. Khi được đưa lên làm Tairô, ông gạt ngay phái Hitotsubashi qua một bên và quyết định trao cho Yoshitomi chức Shôgun.

Xử trí kiểu độc tài của ông làm cho triều đình lẫn phái Hitotsubashi kháng nghị. Thế mà ông cương quyết đàn áp đến cùng. Đó là nguyên do của vụ đại ngục năm Ansei (An Chính đại ngục, 1858-59) nghĩa là việc hình án đã xảy ra trong hai năm Ansei 5 và 6. Những lãnh chúa và công khanh liên kết với phái Hitotsubashi đều trở thành đối tượng của lệnh cảnh cáo không được có hành động chống đối và không được phép vào thành Edo, xem như hoàn toàn bị hất cẳng chính trị. Gia thần của họ còn chịu sự xử phạt nặng nề hơn. Phiên sĩ (hanshi) tức viên chức của phiên Echizen là Hashimoto Sanai (Kiều Bản Tả Nội) và của phiên Chôshuu là Yoshida Shôin (Cát Điền Tùng Âm) đều bị tử hình.
 
Vụ đại ngục năm Ansei (1858, Ansei 6)
Hoàng tộc Thân vương Shôren.in no miya Đuổi việc cho về hưu (inkyo) vĩnh viễn
Công khanh Tả đại thần Konoe Tadahiro , Tiền nội đại thần Sanjô Sanemitsu tất cả 10 người. Đuổi việc cho về hưu vĩnh viễn hay tạm thời, giam lỏng (kinshin)
Chư hầu 

(Daimyô)

Tokugawa Nariaki, phiên chủ Mito, Tokugawa Yoshinobu, gia chủ dòng Hitotsubashi, Matsudaira Yoshinaga, phiên chủ Echizen, Yamanouchi Toyoshige, phiên chủ Tosa vv... Đuổi việc vĩnh viễn hoặc tạm thời, giam lỏng hoặc cấm vào thành vv...
Mạc thần Các quan bugyô như Iwase Tadanari, Nagai Naoyuki, Kawaji Toshiakira Đuổi việc tạm thời, giam lỏng.
Chí sĩ Hashimoto Sanai, Yoshida Shôin, Umeda Unpin, Raimi Kisaburô (con trai Rai Sanyô) tất cả 50 người. Tử hình

Trong những người lãnh án tử hình có chí sĩ Yoshida Shôin là người lỗi lạc nhất. Ông tên là Norikata (Cự Phương), tự là Nghĩa Khanh, thường được gọi là Torajirô (Dần Thái Lang), sinh năm 1830 (Tenpô nguyên niên) trong một gia đình phiên sĩ ở Chôshuu. Trước họ Sugi, sau làm con nuôi nhà Yoshida, một sĩ tộc hạng trung, chuyên giảng binh pháp. Vì thế, thuở thiếu thời ông chỉ chuyên chú học binh pháp. Từ năm 1853 (Kaei 6), ông mới lên đường du học đó đây, chú ý đến thời sự và mưu đồ đổi mới đất nước từ khi có sự kiện đoàn tàu đen của Perry đến Nhật đòi mở cửa thông thương. Thấy rõ sức mạnh của người nước ngoài đang lăm le xâm chiếm nước mình, ông mới bỏ binh pháp mà theo học văn minh kỹ thuật phương Tây. Theo lời khuyên của học giả Sakuma Shôzan (1811-1864), thầy mình, ông phạm vào quốc cấm là tìm cách vượt biển ra nước ngoài. Sau khi tìm cách lên thuyền Nga ở Nagasaki và bị thất bại, ông hai lần xuống Shimoda để đi nhờ tàu Mỹ (chiếc Mississipi, ngày 25 tháng 4 năm 1854) của Perry, lại bị từ khước. Ông bị bắt về Edo tống vào ngục nhưng sau được cho về giam lỏng tại Hagi (Chôshuu) là nơi quê nhà. .

Lúc ở trong tù, ông giảng về Mạnh Tử cho tù nhân, sau khi về quê rồi, ông vẫn tiếp tục dạy triết lý ấy trong vòng họ hàng thân thích. Bài giảng của ông gồm cả những lời bình luận nhan đề Kômô Satsuki (Giảng Mạnh Cháp Ký), sau đổi tên thành Kômô Yowa (Giảng Mạnh Dư Thoại) cho hợp. Năm sau, ông mở "Trường thôn dưới bóng tùng" (Shôka sonjuku = Tùng hạ thôn thục) và thu nhận đệ tử khắp nơi. Nhiều người đã trở thành những nhà lãnh đạo tương lai thời Duy Tân. Sau vì phản đối kịch liệt việc mạc phủ ký hiệp ước giao hiếu thông thương trong những điều kiện bất lợi với liệt cường, việc chọn người kế vị chức Shôgun không thích hợp, cũng như mưu toan chống đối chính quyền đương thời mà ông bị liên lụy trong Vụ đại ngục và bị trảm thủ vào năm 1859 (Ansei 6), lúc mới 29 tuổi. Ông chính là người đã nhóm lên ngọn lửa đấu tranh cho phong trào tôn quân nhương di, khẩu hiệu của thời Mạc mạt vậy.

Nếu đơn giản hoá tư tưởng của Shôin thì đó là quan điểm "nhất quân vạn dân", "vương thổ vương dân", nhấn mạnh đến liên hệ quân thần và lòng trung thành tuyệt đối vào thiên hoàng, cơ sở tư tưởng kokutai (quốc thể, national communion) đặc biệt của người Nhật. Ngoài Giảng Mạnh Dư Thoại, ông còn viết Tây Du Nhật Ký, Lưu Hồn Lục vv..

Thế nhưng nếu chỉ chủ trương tôn nhương mà người thanh niên lúc chết chưa đến 30 tuổi đầu và giảng về Mạnh tử thôi mà lại làm cho quốc dân khâm phục đến thế thì có gì không hợp lý. Guillaume Carrée [5] đã dẫn ra một đoạn văn dịch Giảng Mạnh dư thoại đáng suy ngẫm như sau: .

Tuy nhiên tôi nghĩ rằng trọng pháo, chiến hạm hay y học của bọn man di, những hiểu biết về thiên văn và địa lý của chúng có thể rất có ích cho nước ta. Chúng ta phải du nhập thật nhiều vào trong nước...Nếu loại bỏ cái học Tây phương bởi vì nó đến từ bọn man di, vì do những kẻ man di tạo ra, thì thử hỏi tại sao một người như Mạnh tử lại không tiếc lời ca ngợi Trần Lương dù ông ta là một kẻ man di miền nam đến từ nước Sở để phục vụ ở Trung Nguyên. Những bậc minh quân ngày xưa khi dùng người, không hề loại bỏ người hiền chỉ vì gốc gác man di của họ. Còn nếu như người đó vẫn giữ tấm địa man rợ và kỹ thuật của hắn không đem lại lợi ích cho quốc gia thì lúc ấy hãy chém đầu hắn tại chỗ.

Khi tôi muốn theo tàu trốn sang đất Mỹ, Tượng Sơn tiên sinh (Sakuma Shôzan), thầy tôi, có căn dặn: Nếu việc ra đi này không thực hiện bởi một người có một tấm lòng trung cang thiết thạch thì sẽ là một mối nguy hại cho nhà nước.Nhưng theo ta, nhà ngươi đúng là kẻ xứng đáng để thực hiện việc đó".

Tóm lại, Yoshida Shôin đã đại diện cho một thế hệ sống trong mâu thuẫn lớn là quan ngại sức mạnh của những kẻ muốn xâm lược nước ông nhưng cũng bị thu hút vì văn minh kỹ thuật tiến bộ của họ. Với một tấm lòng thiết thạch muốn giữ gìn bản chất dân tộc, ông và các môn đệ đã có đủ tố chất để vượt qua khó khăn.
 

Sakuma Shôzan (1811-1864) 
Yoshida Shôin (1830-1859)

Thơ văn tôn vương đảo mạc

Để hiểu tâm tình của sĩ phu Nhật Bản giai đoạn đại thần Ii Naosuke lãnh trọng tránh lèo lái đất nước, không gì hay hơn là đọc mấy dòng thơ chữ Hán do văn nhân thời đó làm ra. Người tiêu biểu có thể đem ra giới thiệu ở đây là Yanagawa Seigan (Lương Xuyên, Tinh Nham, 1789-1858), một Nho gia thời Edo hậu kỳ và là nhà thơ có tài. Ông người đất Mino (huyện Gifu), từng tham gia Kôko shisha (Giang hồ thi xã), giao du với các văn nhân nổi tiếng đương thời như Ichikawa Kansai, Kan Chazan, Hirose Tansô. Ông lên Edo, mở Gyokuchi ginsha (Ngọc trì ngâm xã), đào tạo được nhiều nhân tài. Trước cảnh đời tao loạn, vận nước lênh đênh, ông tìm đến Kyôto, hô hào tôn quân nhương di, hoạt động gần gủi với các chí sĩ như Yokoi Shônan, Yoshida Shôin và Raimi Kisaburô... Trong vụ đại ngục năm Ansei, ông nằm trong danh sách những kẻ đáng bị bắt giam nhưng lại chết trước đó vì bệnh dịch tả.Sau đây là hai bài thơ ông viết. Bài trước phúng thích đám con cháu nhu nhược của Tokugawa Ieyasu, người mở đầu triều đại và được phong Chinh di đại tướng quân, bài sau nói lên lòng lòng ưu thời mẫn thế và sự uất ức của mình trước hành động các chính trị gia đương thời.

Thất đề

Đương niên nhưng tổ khí bằng lăng,
Sất sá phong vân quyển địa hưng.
Kim nhật bất năng trừ ngoại hấn,
Chinh Di nhị tự thị không xưng.
Thơ đánh mất đề.
Khi xưa cụ tổ khí hào hùng.
Gào gió tung mây cuộn đất bằng.
Nay cháu con khờ cho giặc lấn,
Chinh Di chức ấy thẹn hay chăng?

Ngẫu thành nhị thủ (kỳ nhị)

Thử sinh dữ thế xảo tương vi,
Hồi thủ thiên bàn sự tổng phi.
Lại hữu ngâm nga liêu tống lão,
Mỗi nhân phong cảnh đạm vong quy.
Bố y kinh tế tư Trần Lượng,
Kim đới tinh trung ức Nhạc Phi.
Tùng cổ hào hùng đa bất triển,
Si nhi ngốc hán lộng khu ky.
Ngẫu nhiên thành thơ (bài thứ hai trên hai)
Sống hết đời sao chả được gì,
Ngoảnh đầu nghìn lượt hỏi còn chi
May có thơ ngâm vui tuổi hạc
Xem dăm cảnh đẹp tạm quên về.
Lo dân, áo vải thương Trần Lượng[6].
Vì nước, đai vàng nhớ Nhạc Phi.
Trong sử anh hùng thường thất bại,
Bởi vì lũ ngốc nắm thời cơ.[7]

Yoshida Shôin, bạn của nhà thơ Yanagawa Seigan nói đến ở đây, vốn quê ở Hagi (tỉnh Yamaguchi bây giờ), từng mở trường học trong thôn gọi là Shôka Sonjuku (Tùng hạ thôn thục), đào tạo được nhiều học trò. Môn hạ của ông về sau đều là những nhân vật lỗi lạc, trong đó phải kể đến Takasugi Shinsaku (Cao Sam Tấn Tác), Kuzaka Genzui (Cửu Phản, Huyền Thụy), Itô Shunsuke tức Hirobumi (Y Đằng Tuấn Phụ tức Bác Văn), Yamagata Aritomo (Sơn Huyện,Hữu Bằng), Shinagawa Yajirô (Phẩm Xuyên, Di Nhị Lang) vv...Họ là những nhà hoạt động đã có công lao đổi mới nước Nhật từ giai đoạn cuối mạc phủ bước qua Meiji.Chỉ trong vòng hai năm, một thời gian cực ngắn, Shôin đã thành công đào tạo chừng ấy những vĩ nhân cho Nhật Bản.Ông thật là một nhà giáo dục đáng ca ngợi.

Ngày nay, vùng Hagi vẫn còn gìn giữ cẩn thận ngôi "trường thôn dưới bóng tùng" của ông. Đây là một nơi khách hành hương tấp nập lui tới.

Trong vụ đại ngục năm Ansei, một người có địa vị cao như lãnh chúa phiên Mito là Tokugawa Nariaki mà cũng phải chịu hình phạt ẩn cư và giam lỏng. Điều đó làm các phiên sĩ Mito lấy làm phẫn nộ. Một bộ phận bỏ phiên mà đi (datsuhan = thoát phiên). Họ bèn cùng với các phiên sĩ của phiên Satsuma mưu việc ám sát Ii Naosuke để báo thù tuyết hận. Năm 1860 (Mannen nguyên niên), vào ngày 3 tháng 3, đợi khi Ii Naosuke lên chầu trên thành Edo, họ đã phục kích ngoài cổng Sakuradamon và thực hành kế hoạch.

Ngày 3 tháng 3 âm lịch là thời điểm hoa anh đào sắp nở, thế mà hôm đó trời lại đổ tuyết rất lớn.Vì thanh kiếm là vật người samurai bảo trọng như tính mệnh và không muốn để nó bị tuyết làm ướt, các gia thần cận vệ của Ii Naosuke tuy mang kiếm theo nhưng lại bọc chúng trong bao bì rất kỹ càng. Do đó, khi những phiên sĩ của Mito tập kích thì họ bị vướng víu, không kịp tuốt kiếm ra để phản công. Tuy họ đông đến 60 mà những kẻ tập kích chỉ có 18 người, các gia thần của Naosuke đành nhìn chủ quân của mình bị sát hại trước mắt.

Theo lời thuật lại của các nhân chính, sau một tiếng súng lệnh, những kẻ tập kích đã ào ra, tiến sát tới kiệu của Ii Naosuke và đâm vào đó nhiều nhát kiếm. Sau đó họ đã lôi Ii Naosuke người bê bết máu từ trong kiệu ra và chém rơi đầu.

Việc giết quan Tairô đệ nhất triều đình giữa thanh thiên bạch nhật là một hành động chôn vùi uy tín của mạc phủ.Nó đã dẫn đường đến sự suy vong của chính quyền Edo. Vụ Ii Naosuke bị ám sát được các nhà viết sử gọi là "Cuộc biến loạn ngoài cổng Sakuradamon" (Sakuradamongai no hen).


Tranh thuật lại cuộc ám sát Ii Naosuke ngoài cửa Sakuradamon (24/03/1860)

3.2 Tình thế rối bòng bong hồi cuối đời mạc phủ:

Cuộc vận động chính trị tiêu biểu cuối đời Mạc phủ (Mạc mạt) dĩ nhiên là phong trào "tôn quân nhương di". Tư tưởng được gọi tắt là sonjô (tôn nhương) này trước kia là hai tư tưởng độc lập, bởi "tôn vương luận" và "nhương di luận" thoạt tiên không liên hệ gì với nhau. Tư tưởng tôn vương xem Thiên hoàng như là bậc tôn quí nhân đức nhất, xứng đáng là đối tượng của sự sùng bái.

Có lẽ điều sau đây sẽ làm chúng ta ngạc nhiên nhưng thực ra tư tưởng tôn vương (tôn quân) là lời răn dạy của Chu Tử học.Đương thời giới võ sĩ xem đó là một điều thường thức mà mạc phủ cũng chấp nhận. Những người cầm quyền họ Tokugawa đều được Thiên hoàng phong cho chức Sei Daishôgun (Chinh Di đại tướng quân). Làm sao có thể coi nhẹ Thiên hoàng được, bởi vì như thế là gián tiếp coi nhẹ Shôgun.

Đặc biệt, nơi "tôn vương luận" được đề cao hơn cả là phiên Mito, một trong "tam gia" (sanke), cột trụ của dòng họ Tokugawa. Lãnh chúa đời thứ hai, Tokugawa Mitsukuni (Đức Xuyên Quang Quốc) đã dồn tâm lực để cổ xúy cho chủ trương này. Ông đã cho gia thần biên soạn bộ Dai Nihonshi (Đại Nhật Bản sử) vĩ đại mà trong đó, gia đình thiên hoàng đóng vai trò trung tâm.Sự nghiệp này đã được các lãnh chúa đời sau của phiên Mito tiếp nối. Từ đó, phiên Mito đã trở thành chiếc nôi của tư tưởng tôn vương mà sự tôn sùng thiên hoàng là cơ sở lý luận của các phiên sĩ. Quyển Nihonshi, như ta đã biết, hoàn thành dưới thời Meiji.

Còn "nhương di luận", nó đã xuất hiện lúc nào và phát xuất từ đâu?

Chính ra nó là một tư tưởng khá đơn thuần.Những kẻ chủ trương nó chỉ muốn đánh đuổi người ngoại quốc ra ngoài cõi mà thôi.

Hồi bắt đầu thế kỷ 19, tàu bè liệt cường thường xuyên xuất hiện ở ven viển Nhật Bản.Lúc thì họ đo đạc vùng duyên hải, lúc thì họ đổ bộ. Trước tình thế như vậy, những người Nhật Bản - vốn không quen với sự có mặt của người ngoại quốc - đã đâm ra sợ hãi và căm ghét. Cứ như thế mà tư tưởng nhương di đã bùng cháy lên một cách nhanh chóng. Có thể hiểu trước tiên như một sự dị ứng.

Thế nhưng hai tư tưởng đã đã được nhập làm một nhân một tình cờ có tính lịch sử. Ở phiên Mito, cứ điểm của tôn vương luận, có sự kiện những người ngoại quốc đổ bộ lên.

Tháng 5 năm 1824 (Bunsei 7), có tàu Anh xuất hiện ở Ôtsuhama, một cái bến thuộc địa phận phiên Mito. Có hai người trong đám thủy thủ đã lên bờ để hỏi lương thực và nước. Sự kiện này làm người Nhật sở tại xôn xao và gieo mầm tư tưởng nhương di vào đầu các viên chức của phiên, từ lâu đã nuôi dưỡng bằng tôn quân luận. Nhân vật chủ chốt trong đám họ là hai học giả Fujita Tôko (Đằng Điền, Đông Hồ) và Aizawa Yasushi (Hội Trạch, An).

Kể từ khi Đề Đốc Perry đến Nhật, đã có nhiều người lớp trẻ đã đến Mito để tìm hiểu, học hỏi về tư tưởng tôn quân do người trong phiên chủ trương. Yoshida Shôin của phiên Chôshuu cũng là một trong những người ấy.

Đến khi Thiên hoàng Kômei (Hiếu Minh), một ông vua không ưa gì người ngoại quốc, cự tuyệt việc phê chuẩn hiệp ước mạc phủ ký với người Mỹ, họ tỏ ra đồng cảm và ca tụng ông là bậc quân chủ thức thời. Phong trào chủ trương bỏ rơi một mạc phủ yếu hèn để đặt kỳ vọng vào triều đình càng ngày càng trở nên rầm rộ, đến độ nó phát triển thành một cuộc vận động chính trị "tôn quân nhương di". Điều ấy có nghĩa là nếu có chiếu chỉ của thiên hoàng thì họ sẽ phụng mệnh để chấp hành ngay việc bài trừ người ngoại quốc.

Những võ sĩ vô chủ (vì đã "thoát phiên") của Mito đều sùng bái tư tưởng "tôn nhương". Ai đi ca ngợi "tôn nhương" thời đó đều được đánh giá những chí sĩ (shishi). Thế nhưng, những kẻ đã sát thương chức Tairo là Ii Naosuke ngoài cổng Sakuradamo, các nhân vật chủ trương mở cửa (kaikokuha = khai quốc phái) cũng như người ngoại quốc thì không còn được xem là những chí sĩ nghĩa là đấu tranh chính trị bằng tư tưởng và thuyết phục nữa. Họ đã chứng tỏ niềm tin của mình qua hành động và những hành động này đều có tính quá khích.

Năm 1860 (Mannen nguyên niên), người thông dịch cho lãnh sự Townsend Harris tên là Heusken (Hendrik Conrad Joannes Heusken, 1832-1861, gốc Hà Lan) đã bị các lãng sĩ (võ sĩ vô chủ) phiên Satsuma chém chết. Năm sau, các lãng sĩ của phiên Mito cũng tập kích công sứ quán của người Anh (sử chép là vụ Đông Thiền Tự hay Tôzenji jiken, 1861) làm 2 nhân viên bị thương. Tôzenji là một ngôi chùa vùng Shinagawa thuộc thành phố Tôkyô bây giờ. Nhân đó, phiá người Anh đòi hỏi mạc phủ không để họ trú ngụ trong chùa chiền (như cách thức vẫn làm cho đến nay đối với các phái bộ nước ngoài) mà phải xây cất cho họ công quán mới với hệ thống phòng thủ kiên cố.

Nhân đó, mạc phủ bắt đầu xây cất công sứ mới cho người Anh ở Goten.yama (Shinagawa, Tôkyô). Năm 1862 (Bunkyuu 2), công quán vừa hoàn thành không lâu thì đã bị nhóm võ sĩ phiên Chôshuu của Takasugi Shinsaku phóng hỏa thiêu rụi (Đó là sự kiện Phóng hỏa công sứ quán Anh hay Igirisu kôshikan yakiuchi jiken).


Andô Nobumasa ( 1819-1871)

Trong phái "tôn nhương" (sonjô), bắt đầu có những tiếng nói kêu gọi hãy dẹp bỏ mạc phủ để xây dựng một chính quyền mới với triều đình là trung tâm. Nó cũng đi đôi với việc hô hào đuổi cổ người ngoại quốc ra khỏi đất nước. Lo lắng vì những mầm biến động như vậy, chức Rôjuu đương thời là Andô Nobumasa (An Đằng, Tín Chính, 1819-1871, người thay thế Ii Naosuke) mới tính đến việc xúc tiến việc kết hợp một cách êm đẹp giữa phái tôn quân với phái theo mạc phủ trong một quá trình gọi là "công vũ hợp thể" (kôbu gattai). Công tức là công gia, công khanh, chỉ triều đình. Còn vũ là vũ gia, chỉ chính quyền quân nhân của mạc phủ vậy. Việc này chứng tỏ đã có sự thay đổi trong nội bộ mạc phủ: vì muốn giữ cho được sự yên ổn, họ đành đổi từ thể chế độc tài sang thể chế hòa hợp. Để chứng tỏ điều đó, Andô Nobumasa đã thực hiện việc rước công chúa Chikako (còn gọi là Kazu no miya = Hòa cung, em gái của Thiên hoàng Kômei) về làm phu nhân cho Shôgun đời thứ 14 Iemochi (Gia Mậu, tên cũ là Yoshitomi = Khánh Phúc) vào năm 1862 (Bunkyuu 2).

Thế nhưng công chúa Chikako (Thân tử, 1846-1877) đã hứa hôn với một người khác, hoàng thân Arisugawa no miya Taruhito shinnô. Chính cô cũng ghét việc phải bỏ Kyôto để lên Edo. Vì tính cách hầu như cưỡng chế của việc kết hôn, trong dân chúng lại nổi lên lời đàm tiếu "Như thế là mạc phủ bắt (công chúa) Kazu no miya làm con tin hay sao?" làm cho nhóm "tôn nhương" phẫn nộ. Kết quả là đại thần Andô Nobumasa đã bị một nhóm phiên sĩ của Mito tập kích bên ngoài cửa Sakashita thành Edo nhưng ông chỉ bị thương. Sir Rutherford Alcock có tường thuật lại là ông rất dũng cảm, bị thương rồi mà vẫn bình tĩnh điều khiển bộ hạ chống trả những kẻ tập kích. Tuy nhiên, vì sự kiện đó mà đại thần mất thế đứng và phải rút lui khỏi sân khấu chính trị. Sử gọi là Cuộc biến loạn ngoài cổng Sakashita hay Sakashitamon no hen.


Kazu no miya (1846-1877) 
trong phim dã sử truyền hình Atsuhime.

Thế nhưng sự kiện nói trên vẫn không trì hoãn được kế hoạch "công vũ hợp tác" của hai phía. Người nối tiếp việc thực hiện nó là lãnh chúa phiên Satsuma, Shimadzu Hisamitsu (Đảo Tân, Cửu Quang, 1817-1887). Ông là một người có thực lực, giữ vị trí quan trọng nhất trong chính quyền Satsuma cho dù ông không phải là lãnh chúa. Hisamitsu chỉ là cha ruột của lãnh chúa mà thôi nhưng dân trong phiên kính nễ ông và gọi là quốc phụ (kokufu), đủ hiểu thanh thế của ông như thế nào.


Shimadzu Hisamitsu ( 1917-1887)

Hisamatsu đã dẫn theo 1.000 quân và tiến về Kyôto. Ông thuyết phục triều đình liên kết

với mạc phủ và chứng tỏ tinh thần hợp tác giữa hai bên để giúp mạc phủ cải tổ chính trị bằng cách phái một sứ giả lên Edo nói chuyện.Sau đó, ông tháp tùng sứ giả của Thiên hoàng lên Edo, tiếng là giúp việc cảnh bị nhưng chính ra là bám sát bên cạnh mạc phủ để đốc thúc họ tiếp nhận chủ trương của mình.

Một người chỉ thuộc vào hàng tozama không phải thân cận gì với nhà chúa, lại chẳng có chức danh gì chính thức mà cả gan lên tiếng đòi hỏi mạc phủ những điều như thế, quả là hi hữu. Thế nhưng mạc phủ đã phải chịu nghe theo ông mà thi hành cải cách. Qua đó, chúng ta thấy quyền uy của mạc phủ đã suy sụp tới mức độ nào rồi.

Cuộc cải cách của mạc phủ ở giai đoạn này có tên là cải cách trong năm Bunkyuu (Bunkyuu no kaikaku), (1861-1864). Những thay đổi chính là việc giảm bớt sức ép cho chế độ tham cần giao đại tức thay phiên lên chầu (sankin kôtai), áp dụng quân chế Tây phương trong quân đội vv...Thế nhưng điều chúng ta phải chú ý hơn cả là việc bổ nhiệm nhân sự trong các chức vụ mới. Người trách nhiệm toàn bộ chính trị (chức Chính sự tổng tài) từ đây sẽ là lãnh chúa Echizen, Matsudaira Yoshinaga (Tùng Bình, Khánh Vĩnh, 1828-1890), người phụ tá Shôgun sẽ là Hitotsubashi Yoshinobu (Nhất Kiều, Khánh Hỷ, 1837-1913), còn chức thủ hộ phủ Kyôto sẽ là lãnh chúa phiên Aidzu, Matsudaira Katamori (Tùng Bình, Dung Bảo, 1835-1893). Mới nhìn qua tên các nhân vật, người ta đã thấy dấu hiệu sự trở lại chính trường của phái Hitotsubashi, những người từng bị Ii Naosuke trù dập trong vụ đại ngục năm Ansei.

Thế thì cuộc kết hợp giữa triều đình liệu đã xảy ra một cách tốt đẹp hay không? Rất tiếc phải trả lời rằng nó đã thất bại.

Phiên Chôshuu (tỉnh Yamaguchi, cực nam Honshuu) vốn dương cao ngọn cờ tôn vương, đã tìm cách chận đứng việc Satsuma (phiá tây tỉnh Kagoshima, cực nam Kyuushuu) trong việc thực hiện "công vũ hợp tác" mà họ cho là nửa vời. Trước tiên, phiên Chôshuu đã thành công việc nắm được chủ quyền trong triều đình. Thế rồi từ đó, nấp bóng triều đình, họ làm mói cách để ép buộc mạc phủ phải tuyên bố cho phép các phiên có hành động "nhương di".

Không biết cách nào hơn, mạc phủ đành chấp nhận đòi hỏi của Chôshuu. Ngày 10 tháng 5 năm 1863 (Bunkyuu 3), mạc phủ ra lệnh cho chư phiên "nhất tề nhương di". Thế nhưng hôm đó chỉ có mỗi phiên Chôshuu y hẹn, pháo kích vào tàu ngoại quốc. Những phiên khác thì bất động, chắc họ đều nghĩ thời điểm bây giờ đâu còn là lúc có những hành động quá khích như kiểu đó được nữa.

Đúng ra, có một thiểu số thuộc phái "tôn nhương" đã bằng lòng hiệp đồng trong hành động với phiên Chôshuu. Ví dụ phiên sĩ Tosa (Thổ Tá, phía nam đảo Shikoku) là Yoshimura Toratarô (Cát Thôn, Hổ Thái Lang) và công khanh Nakayama Tadamitsu (Trung Sơn, Trung Quang) cùng hô hào "tôn vương nhương di" và tấn công văn phòng chức daikan (quan hành chánh đại diện mạc phủ ở lãnh địa họ trực quản) tại Yamato Gojô. Sử chép đó là loạn của Tenchuugumi (nhóm Thiên Tru, Thiên Trung), một tổ chức cần vương. Tuy nhiên, mục đích của nhóm người này hình như không phải là "nhương di" mà chỉ nhắm đánh đổ mạc phủ (thảo mạc = tôbaku).

Tuy Thiên hoàng Kômei ghét người ngoại quốc nhưng có lẽ ông không hề mơ đến việc mình sẽ đoạt lại chính quyền từ tay mạc phủ. Do đó, ông đã phê phán mưu tính việc "thảo mạc" của nhóm người này. Biết được sự tình, hai phiên chủ trương "công vũ hợp thể" là Satsuma và Aidzu (phía tây tỉnh, Fukushima, Đông Bắc Edo) - được sự đồng ý của Thiên hoàng - thực hiện một cuộc đảo chánh để đuổi thế lực quá khích Chôshuu ra khỏi triều đình vào ngày 18 tháng 8 năm 1863. Như thế, lực lượng gồm người của phiên Chôshuu và nhóm công khanh quá khích trong triều đã bị tống khứ ra khỏi thành phố Kyôto. Sự kiện này được mệnh danh là Chính biến ngày 18 tháng 8. Trong đám công khanh thất thế lúc đó, có tên của Sanjô Sanetomi (Tam Điều, Thực Mỹ, 1837-1891), một người đáng nhớ vì ông sẽ còn có cơ hội trở lại đóng những vai trò quan trọng trên sân khấu chính trị.

Tuy nhiên, dù cuộc đảo chánh đã xảy ra, nó không làm cho lực lượng của phái "tôn nhương" - mà Chôshuu đóng vai trò chủ chốt - bị yếu đi.Không những thế, hành động của họ càng ngày càng có màu sắc quá khích.Ví dụ như vào tháng 10 cùng năm ấy (1863), 2.000 người thuộc phái "tôn nhương" do Hirano Kuniomi phiên Fukuoka dẫn đầu, đã tập kích và chiếm giữ trụ sở hành chánh của chức daikan ở Tajima (gọi là vụ biến loạn Ikuno). Lại nữa, lúc ấy, những thành phần gọi là chí sĩ trên toàn quốc đã lẻn vào Kyôto và ngấm ngầm có những hoạt động chính trị hòng phục hồi uy thế của phe nhóm mình.

Việc lùng bắt các chí sĩ cần vương này vốn là nhiệm vụ của người lãnh chức thủ bị Kyôto, Matsudaira Katamori, lãnh chúa phiên Aidzu. Katamori đã rất tích cực trong nhiệm vụ. Ông trao quyền lực cho một cơ quan cảnh sát rất đắc lực có tên là Shinsengumi (Tân tuyển tổ) do Kondô Isami (Cận Đằng, Dũng, 1834-1868) lãnh đạo.

Vào tháng 6 năm 1864, Shinsengumi đã nghe từ miệng những chí sĩ bị họ bắt giữ một tin động trời. Đó là kế hoạch "sẽ phóng hỏa thành phố Kyôto rồi thừa lúc hỗn loạn bát nháo sẽ tấn công Matsudaira Katamori cũng như tất cả đồng bọn thuộc nhóm "công vũ hợp thể". Sau đó sẽ xông vào ngự sở của Thiên hoàng, đoạt lấy ông ta mang về Chôshuu". Dĩ nhiên kế hoạch này hết sức táo bạo.

Chính vì vậy mà lực lượng cảnh sát Shinsengumi của mạc phủ mới đi lùng các chốn khả nghi có các chí sĩ đang ẩn nấp. Rốt cục, họ đã khám phá ra một nơi là lữ quán Ikedaya, nơi các chí sĩ đang hội họp. Cuộc tập kích đã xảy ra làm 7 chí sĩ bị thiệt mạng và 23 người khác bị bắt sống.

Sử chép đây là vụ quán Ikedaya (Ikedaya jiken). Nghe tin chẳng lành, các chí sĩ Chôshuu đùng đùng nổi giận và phiên Chôshuu đã gửi một đạo quân lớn tiến vào Kyôto. Rốt cuộc một cuộc chạm trán đại qui mô giữa Chôshuu với các lực lượng của Satsuma và Aidzu đã bùng nổ ngay tại kinh đô.
 
Shinsengumi là những ai?

Nguyên lai, Shinsengumi (Tân tuyển tổ) hay Miburô (Những lãng sĩ, những con sói ở Mibu vì Mibu là tên vùng trung tâm Kyôto vì "lang" và "lãng" cùng đọc là "rô") được thành lập từ một nhóm quân cận vệ riêng gọi là Rôshigumi (Lãng sĩ tổ) tháp tùng Tướng quân Tokugawa Iemochi khi ông lên Kyôto. Năm 1863, 13 người trong nhóm đó đã ở lại hẳn kinh đô và kết hợp với các thành phần khác trong xã hội (nông dân, thương nhân, thợ thủ công, y sĩ, nhà tu) nhưng chủ yếu vẫn là samurai vô chủ, thành một lực lượng quân sự. Họ xin chính quyền mạc phủ cho mình đảm nhiệm việc trị an để bảo vệ thành phố, lúc đó rất nhiễu nhương vì có quá nhiều phe nhóm chính trị và thường gây đổ máu hay đốt phá. Họ được phép làm việc dưới sự chỉ huy và chi viện của phiên Aidzu (thuộc Fukushima), vốn ủng hộ lập trường của mạc phủ.

Sau nhiều cuộc thanh trừng nội bộ vì ý kiến bất đồng, Kondô Isami (1834-1868) nắm quyền chỉ huy, người phụ tá nổi tiếng của ông là "quỷ sứ" Hijikata Toshizô (1835-1869) vì ai cũng khiếp sợ. Có lúc lực lượng đông đến 300 người. Kẻ thù của họ là nhóm võ sĩ phiên Chôshuu và sau đó cả phiên Satsuma khi mà hai bên Satchô trở thành đồng minh chia sẻ quan điểm tôn nhương. Thủ đoạn của Shinsengumi rất dứt khoát và tàn nhẫn nhưng kiến hiệu. Tuy nhiên, sau khi Shôgun Yoshinobu giao trả quyền bính cho triều đình, họ đành phải rút khỏi Kyôto và bắt đầu đụng trận với quân triều đình (quan quân) ở Toba Fushimi (1868), vùng phụ cận kinh đô. Tuy là những kiếm sĩ tài nghệ và chiến đấu dũng cảm nhưng họ không thể đương cự được với hỏa lực trội hơn [8]nên đã thất bại, phải chạy về Edo rồi dần dần tan rã. Kondô Isami mang thương tích, bị bắt sống, hỏi tội và chết chém. Saitô Hajime (một đội trưởng) còn lên Aidzu tử thủ. Riêng Hijikata Toshizo tiếp tục cuộc kháng chiến trên đảo Hokkaidô với ý định cùng với Enomoto Takeaki thành lập một nước Cộng hòa Ezo nhưng sang năm sau cũng bại tử khi quan quân tiến lên miền bắc.

Đối với người Nhật, Shinsengumi đã trở thành một huyền thoại, đề tài cho tiểu thuyết, phim ảnh, tuồng kịch và manga, được nhắc đến với lòng thương cảm và kính phục. Trước tiên bởi vì họ là những kẻ ...chiến bại. Hai là nhiều người trong họ là thường dân, đã tranh đấu, xé rào cản xã hội lâu đời để đạt được mơ ước trở thành samurai dù có muộn màng. Ba vì họ là một tập đoàn ưu tú, dũng cảm, thiện chiến, khắc khổ, kỹ luật, đúng như hình tượng lý tưởng mà người Nhật đặt ra cho mình. Cuối cùng, họ là những nạn nhân của thời cuộc, thành vật hy sinh trong một giai đoạn lịch sử chuyển đổi khi Nhật Bản đang mò mẫm đi tìm một thể chế chính trị thích hợp mà kẻ thù hôm qua có thể thành bạn tốt hôm nay.


Hijikata Toshizô, 
chỉ huy phó Shinsengumi ( 1835-1869)

Cuộc chiến với một bên là Chôshuu, một bên là Satsuma và Aidzu ở Kyôto được mệnh danh là Kinmon no hen hay biến loạn ở cấm môn tháng 7 năm 1864 vì lúc đó quân Chôshuu muốn tiến vào cấm thành. Cũng có tên khác là Hamaguri gomon no hen. Cuộc chiến đấu giữa các phiên đã gây tổn thất nặng nề cho dân chúng vì phải có đến 2 vạn 8 nghìn nóc gia làm mồi cho ngọn lửa và nhiều thường dân bị chết cháy. Phía Chôshuu thua trận. Triều đình bèn nghĩ ngay đến việc phát lệnh thảo phạt Chôshuu. Mạc phủ bèn ứng chiếu và họp 21 phiên lại điều quân đánh Chôshuu với tội danh đã khởi động cuộc chiến. Mười lăm vạn binh đã tiến xuống miền nam bao vây phiên Chôshuu. Đó là cuộc thảo phạt Chôshuu lần thứ nhất.

Bên phía Chôshuu thì trước tình thế đó, chính quyền được chuyển từ tay phái "tôn nhương" (có khuynh hướng cách tân) sang tay phái bảo thủ. Chính quyền mới buộc 3 vị karô (gia lão, trọng thần lãnh đạo chính trị của phiên) phải nhận lấy trách nhiệm gây nên cuộc chiến và mổ bụng tự sát (seppuku). Đầu của họ được gửi về mạc phủ để tạ tội, kết cuộc xem như đã được tha thứ.

Tiết 4: Mạc phủ Edo cáo chung: 
4.1 Vận động "thảo mạc" [9] khi biết "nhương di" khó thành:

Tuy lớn tiếng hô hào "nhương di" nhưng đến tháng 8 năm 1864 (Genji nguyên niên), phiên Chôshuu đã đụng vào cái mốc không thể vượt qua. Kể từ sau thời điểm đó, họ hiểu rằng khó lòng đánh đuổi được người ngoại quốc.

Hạm đội liên quân 4 nước Anh, Mỹ, Pháp, Hà Lan lúc đó đã nã trọng pháo tới tấp vào cảng Shimonoseki, thuộc lãnh thổ của phiên. Sau đó quân địch đổ bộ lên được, pháo đài trên đất liền của phiên đã bị giặc chiếm lĩnh (Vụ tứ quốc hạm đội pháo kích Shimonoseki, còn gọi là Mã Quan chiến tranh, 1864).

Thực ra, ngày 10 tháng 5 năm trước đó, Chôshuu đã pháo kích tàu ngoại quốc băng qua eo biển Shimonoseki và lúc này là cơ hội để liệt cường trả lễ. Sự kiện xảy ra làm cho người của phiên với kinh nghiệm bản thân, thấu hiểu rằng mình khó lòng bài xích người ngoại quốc nữa rồi.

Sau cuộc thảo phạt Chôshuu lần thứ nhất, trong nội bộ của phiên ở Chôshuu, lại xảy ra một cuộc đảo chánh do các ông Takasugi Shinsaku (Cao Sam, Tấn Tác, 1838-1867) và Katsura Kogorô (Quế, Tiểu Ngũ Lang) (về sau đổi thành Kido Takayoshi = Mộc Hộ Hiếu Duẫn, 1833-1877) thuộc phái "tôn nhương" (cách tân) thực hiện, đoạt lại chính quyền từ tay phái bảo thủ. Thế nhưng dù thành công, các ông ấy cũng bắt đầu bỏ chuyện nhương di qua một bên, chỉ còn giữ lại chủ trương thứ hai là "thảo mạc" tức là đánh đuổi cho được mạc phủ mà thôi.

Liên quan đến việc này, cũng nên nhắc là vào năm 1863 (Bunkyuu 3), Takasugi Shinsaku đã tổ chức một đạo quân chí nguyện với những thành viên không phân biệt gia thế hay gốc gác (họ là những võ sĩ cấp dưới, phú nông hay phú thương) và huấn luyện quân sự theo phương pháp Tây phương. Đạo quân này có tên là kiheitai (kỳ binh đội), lực lượng bán chính thức (dùng để tập kích địch) nếu đem so sánh với seihei (chính binh), lực lượng quân sự chính thức của phiên. Những tổ chức tương tự như thế lần lượt ra đời ở Chôshuu, gọi chung là shôtai (chư đội) và những những người này mới nắm vai trò trọng yếu trong bộ máy quân sự của lực lượng "thảo mạc".


Nhà duy tân Takasugi Shinsaku (1839-1867) 
chỉ chịu thua bệnh tật

Cũng chính trong năm 1863 đó, phiên Satsuma cũng phải nhìn nhận việc "nhương di" khó lòng thực hiện. Chính vì hạm đội của người Anh đã đến tập kích cửa biển Kagoshima của họ, đốt rụi khu phố buôn bán dưới chân thành (jôkamachi), phá hoại hầu hết pháo đài và thuyền bè. Việc người Anh tiến đánh Kagoshima là để báo thù biến cố Namamugi (Sinh Mạch, một địa danh) xảy ra năm trước. Lúc đó võ sĩ phiên Satsuma đã sát thương người Anh.

Như chúng ta đã nhắc đến bên trên, Shimadzu Hisamitsu của phiên Satsuma đã lên Edo để đưa ra những đề án cải cách cho mạc phủ. Trên đường về, khi đi ngang qua thôn Namamugi (khu Tsurumi thành phố Yokohama ngày nay) thì cả đoàn tình cờ gặp một nhóm 4 thương nhân người Anh trên đường vản cảnh chùa Kawasaki Daishi. Bốn người Anh thấy sự tình như thế đã định tránh đi chỗ khác nhưng một người trong bọn luýnh quýnh quày ngựa không xong làm ngáng đường đoàn kiệu của lãnh chúa. Vài võ sĩ Satsuma bỗng nổi cơn phẫn nộ trước hành động mà họ cho là vô lễ nên tức khắc tiến lên gây hấn với nhóm người Anh. Kết quả là một người Anh bị chém chết tại chỗ và hai người khác mang thương tích.

Phía chính phủ Anh hết sức tức giận khi biết được việc đó.Họ bèn đưa chiến thuyền đến tận chân thành Kagoshima để đòi bồi thường. Nhân vì phiên Satsuma không khứng, thuyền Anh mới pháo kích vịnh Kagoshima. Sự kiện này được sử gia mệnh danh là Satsuei sensô (Chiến tranh giữa Satsuma và Anh). Khác với phản ứng của Chôshuu trước việc Liên quân 4 nước bắn phá Shimonoseki, phiên Satsuma đã biết trả đũa mạnh mẽ lại chiến thuyền Anh. Số bị thương phía người Anh lên hơn 60 người, hạm trưởng và hạm phó chiếc kỳ hạm (flagship) đều tử trận, một số chiến hạm bị hư hại nặng. Do đó, người Anh cũng nhận thức được sức mạnh của phiên Satsuma, khiến cho sau khi chiến tranh kết thúc, hai bên lại tạo được mối liên hệ mật thiết. Đặc biệt viên công sứ ngưới Anh là Parkes (Harry Smith Parkes, 1828-1885) còn mong muốn rằng phải chi có được chính quyền do một "hùng phiên" như Satsuma chỉ đạo phối hợp với triều đình lập một chính quyền liên hiệp, để thay thế mạc phủ hiện tại. Ông ta đã tìm cách lập một mật ước như thế với Satsuma [10]. Do đó Satsuma cũng thay đổi theo chiều hướng đó và bắt đầu có thái độ chống đối mạc phủ rõ rệt.


Công sứ Anh Harry Smith Parkes 
(Ba Hạ Lễ, 1828-1885) thân cận triều đình

Đối chiếu với thái độ của công sứ Anh Parkes là của công sứ Pháp Roches (Léon Roches, 1809-1900).


Công sứ Pháp Léon Roches (1809-1900) 
tận tình giúp mạc phủ

Cho tới nay, Roches một lòng một dạ tích cực chi viện cho mạc phủ từ tiền bạc đến quân sự. Ông không những hứa rằng nước Pháp của Napoleon III sẽ cho mạc phủ vay một trái khoản 600 vạn Mỹ kim mà còn đưa sĩ quan lục quân người Pháp đến giúp Nhật sửa đối chế độ quân đội, giúp đỡ mạc phủ xây dựng một thể chế trung ương tập quyền. Như thế ta thấy có một sự thiếu ăn ý nếu không nói là đối lập về chính sách giữa hai cường quốc Âu châu trên đất Nhật. Điều này đã làm cho tình hình quốc nội của Nhật rối rắm thêm.

Sau khi hàng phục được hùng phiên Chôshuu trong cuộc chinh phạt lần thứ nhất, mạc phủ đã ra lệnh cắt giảm đất phong đối với phiên này. Nhân vì phái cách tân của Takasugi Shinsaku vừa giành lại chính quyền từ tay phái bảo thủ cho nên Chôshuu không dễ gì mà chịu phục tùng lệnh ấy.

Mạc phủ bèn xuống lệnh tổ chức một cuộc thảo phạt Chôshuu lần thứ hai vào năm 1865 (Keiô nguyên niên), qua tháng 6 năm sau, thì quan binh mạc phủ bèn kéo xuống Chôshuu.

Thế nhưng một việc ngoài sức tưởng tượng của mạc phủ. Lực lượng của phiên Satsuma là những người đã đẩy lui quân Chôshuu biến loạn ở Cấm môn (Kinmon hay Hamaguri gomon) và rất tích cực tham gia trong cuộc chinh phạt lần thứ nhất để bắt Chọshuu hàng phục thì nay lại cực lực phản đối việc xuất quân của mạc phủ. Rốt cuộc, họ không tham dự.

Thực ra, hồi tháng 1 năm 1866 (Keiô 2), hai phiên Satsuma và Chôshuu đã bị mật ký kết một thỏa ước "công thủ đồng minh" (đánh dấu cho cuộc Satchô rengô = Sát Trường liên hợp). Mới một năm trước đây, họ còn là thù địch mà nay Satsuma và Chôshuu đã trở thành đồng minh, nhất trí trong chính sách "phản mạc phủ". Bắt tay dễ dàng với nhau như vậy, có thể ta nghĩ họ là những kẻ thiếu tiết tháo nhưng phải chăng, đó là những gì thường xảy ra trên trường chính trị?

Phải nói là có một chất keo hàn gắn hai thế lực khó thể hòa hợp với nhau đó và đây là một cơ may cho Nhật Bản. Hiệp ước sở dĩ được ký kết là nhờ sự trung gian của hai nhà vận động chính trị xuất thân từ phiên Tosa (Thổ Tá, phía nam Shikoku): Sakamoto Ryôma (Phản Bản Long Mã, 1835-1867) và Nakaoka Shintarô (Trung Cương, Thận Thái Lang, 1838-1867). Ngoài ra còn phải kể đến đại diện của Satsuma là Saigô Takamori (Tây Hương Long Thịnh, 1827-1877) và đại biểu của Chôshuu là Kido Takayoshi (đã nhắc đến ở trên).

Còn cuộc chinh phạt Chôshuu lần thứ 2 của mạc phủ, nó đã đưa đến kết quả như thế nào?

Khi đưa đại quân tiến vào lãnh thổ Chôshuu, mạc phủ tưởng như có thể đè bẹp địch thủ thêm một lần nữa nhưng rốt cuộc đã nếm mùi thất bại. Họ thua hết trận này đến trận khác. Sĩ khí của bộ đội Chôshuu rất cao là chuyện đã đành nhưng ngoài ra, võ khí của Chôshuu là đồ của Tây phương, tối tân hơn. Hai yếu tố đó cộng vào nhau đã dẫn đến chiến thắng.

Hơn phân nửa số võ khí Tây phương mà Chôshuu có trong tay là do Satsuma đã cho nhập vào phiên từ đám thương nhân ngoại quốc rồi bí mật chở bằng thuyền đến cho những người bạn đồng minh mới mẻ này.

Trong cuộc thảo phạt Chôshuu, Shôgun Iemochi (Gia Mậu, 1846-1866) ốm chết trong thành Ôsaka. Ông mới 20 tuổi. Thế nhưng việc ông mất là một cái cớ tuyệt hảo để mạc phủ có thể điều binh rút lui mà không xấu mặt. Mạc phủ mượn cớ có đại tang Shôgun, kéo quân về và tự mình kết thúc cuộc chiến.

Như vậy, họ đã tránh được một cuộc đại bại trên danh nghĩa. Nhưng dưới mắt của mọi người, thất bại ấy thấy rõ mồn một. Quyền uy nhà chúa hầu như sụp đổ. Khổ thân cho họ là cuối năm ấy, Thiên hoàng Kômei (1831-1866) lại đột ngột băng hà. Mạc phủ mất một người đồng minh cuối cùng vì nhà vua là người ủng hộ sự liên kết giữa triều đình và mạc phủ với chiêu bài "công vũ hợp thể". Kết quả, cái chết của ông đã khiến cho cuộc vận động thảo mạc gia tăng tốc độ. Mạc phủ lâm vào một tình huống nguy ngập. Nhân vì cái chết của Thiên hoàng Kômei xảy ra giữa lúc không ai ngờ tới nên có lời đồn đại phải chăng ông đã bị phái "thảo mạc" cho uống thuốc độc!

Sự hỗn loạn và phân tranh trong chính trị mạc phủ trình bày bên trên cũng như những biến chuyển trong tình hình kinh tế xuất phát từ việc mở của cho người ngoại quốc thông thương đã bao trùm lên toàn thể xã hội một bầu không khí bất an. Chính vì thế mà dân chúng hướng về các tôn giáo những mong tìm lấy sự cứu rỗi. Vùng Yamato có Tenrikyô (Thiên Lý Giáo) với Nakayama Miki (1798-1887) làm giáo tổ, vùng Bizen thì có Kurozumikyô (Hắc Trú (Trụ) Giáo) do Kurozumi Munetada (Hắc Trú Tông Trung, 1780-1850) sáng lập, vùng Bichuu lại có Konkôkyô (Kim Quang Giáo) của Kawate Bunjirô (Xuyên Thủ Văn Trị Lang). Những giáo phái này đã lan tràn một cách nhanh chóng.

Cũng trong thời gian ấy, nổi lên một phong trào gọi là Okagemairi (Ngự âm tham) nghĩa là đi tham bái Thần cung Ise. Năm 1867 (Keiô 3), có một đoàn lũ vừa đi vừa nhảy múa cuồng loạn vừa hát Ejanaika! (Thì chả tốt sao!) suốt một vùng từ Tôkai đến Kinki.

Số là nơi gọi là nhà trạm Goyu ở Owari, không biết từ đâu có những lá bùa rơi từ trến trời xuống Thần cung Ise, thế rồi hiện tượng này lan ra hết chỗ này đến chỗ khác khắp vùng Owari, dân chúng cho là điềm lành cho nên vui mừng, miệng thì hát "Thì chả tốt sao! Thì chả tốt sao!", quơ tay quơ chân làm thành đoàn lũ đi khắp nơi trên những trục đường chính. Họ hát những câu như:

Nhờ có Chôshuu mà một phần gạo chỉ mất có trăm tiền,
Thì chả tốt sao?
Một tấm vải chỉ tốn có hai phân (bu),
Thì chả tốt sao? Thì chả tốt sao?
Nếu giá cả mọi thứ đều giảm,
Thì chả tốt sao? Thì chả tốt sao? [11]...

Đàn ông thì ăn mặc kiểu đàn bà, bà lão lại hoá trang thành thiếu nữ, rất là kỳ quặc, khó lòng ai có thể tưởng tượng đó là những hành vi có thể xảy ra trong cuộc sống bình thường. Những người này xông vào trong các quán trọ bên đường và cướp bóc đồ đạc, có khi còn phóng hỏa nữa. Có một khoảng thời gian, một vùng Keihan (Kyôto đến Ôsaka) lâm vào tình trạng vô chính phủ.Cuộc vận động ấy với khẩu hiệu "Thì chả tốt sao!" của dân chúng có lẽ đã thoát thai từ tập tục okagemairi tức việc đi hành hương ở đền Ise theo một chu kỳ nhất định. Tuy nhiên cũng có thuyết cho rằng, nó xuất phát từ bàn tay của phái "thảo mạc". Những người này muốn tạo ra một cảnh tượng hỗn quân hổn quan để du mạc phủ vào thế bí.

Thế rồi, tư tưởng tôn vương không còn là một đặc quyền của giới sĩ phu nữa. Dần dà, nó đã thấm vào trong lối suy nghĩ của tầng lớp dân chúng nông thôn. Tư tưởng tôn vương vốn đến từ lập trường "phục cổ" như các học giả phái quốc học đề xướng nhưng nó cũng phù hợp với tinh thần yonaoshi ikki (nổi loạn để chỉnh đốn chính trị) của người bình dân. Trong các đại đô thị như thành phố Kyôto, việc vật giá tăng vọt và mạc phủ thiếu năng lực không tìm ra giải pháp thích ứng đã khiến cho người bình dân phẫn nộ cho nên đã làm xảy ra rất nhiều cuộc đập phá (uchikowashi) khắp nơi.

Tình hình xấu xa như vậy đã tạo nên sức ép, thúc bách phái "thảo mạc" phải chóng vánh thực hiện mục đích.
 
Satsuma và Chôshuu đi đầu trong việc thảo mạc.

Các hùng phiên như Satsuma và Chôshuu cuối đời Mạc phủ Edo đều có đặc điểm chung là ở xa, không được tin dùng nhưng thường có sức mạnh quân sự và kinh tế, nắm nhiều thông tin về nước ngoài. Satsuma đã có truyền thống độc lập tự thời Kamakura (1185-1333) còn họ Môri ở Chôshuu thì đã bị sơ viễn vì từng lãnh đạo Tây quân chống Ieyasu ở Sekigahara (1600). Hai thế lực này đã từ lâu nung nấu tình cảm chống đối lại chính quyền trung ương. Khi Hiệp ước giao hiếu thông thương Nhật Mỹ ký kết để mở các hải cảng cho người ngoại quốc mà không có sự đồng ý của Thiên hoàng, họ đã cáo buộc mạc phủ là "trái lệnh thiên tử" (ichoku = vi sắc). Trong tình trạng kinh tế hỗn loạn sau khi "khai cảng", ý thức tôn quân nhương di và phản mạc đã thấm cả đến các võ sĩ cấp dưới.Thêm nữa, vụ đại ngục năm Ansei làm cho sĩ tộc thêm phẫn khái, đưa đến biến loạn sát hại đại thần Ii Naosuke ngoài cửa Sakuradamon (1860) do các lãng sĩ phiên Mito. Chính ra nhóm Seichuugumi (Tinh trung tổ) của phiên Satsuma (với Ôkubo Ichizô, sau đổi tên thành Toshimichi) cũng đã muốn tham gia nhưng cố sức mấy họ vẫn không thuyết phục nổi lãnh chúa Shimadzu Shigehisa cho phép. Thành thử chỉ có mỗi một người trong bọn tham dự vào cuộc biến loạn. Một năm sau, phiên Tosa đã thành lập Kinnôtô (Cần vương đảng) giương ngọn cờ nhương di. Chôshuu cũng muốn báo thù cho Yoshida Shôin, nhà tư tưởng tôn nhương vốn bị chém đầu trong vụ đại ngục Ansei. Riêng Mito và Tosa dù tôn vương nhưng vì lý do liên hệ gần gủi với nhà chúa nên buổi đầu hãy còn nặng lòng tá mạc.

Sau đó thì lịch sử đi đến một thời hỗn độn, nhiều khuynh hướng đồng thời xuất hiện. Một bên là khuynh hướng hòa giải triều đình và mạc phủ (kôbu gattai = công vũ hợp thể), một bên là những hành động nhương di quá khích có tính khủng bố (các vụ Huysken 1860, vụ Tôzenji 1861, vụ Namamugi 1862) cũng như những sự thanh toán lẫn nhau do sự hiểu lầm (vụ Teradaya 1862). Thế nhưng sức mạnh của pháo hạm Anh bắn vào Kagoshima (chiến tranh Anh-Satsuma 1863) khiến cho người phiên Satsuma tỉnh mộng khi thấy khả năng nhương di khó thành, phải đặt ưu tiên cho việc đảo (thảo) mạc nghĩa là đánh đổ mạc phủ (phản mạc khai quốc luận), thống nhất nội bộ cái đã rồi tính sau. Trong lúc đó thì Chôshuu vẫn tiếp tục con đường nhương di, bắn cả vào thuyền Mỹ đang đi qua biển Shimonoseki. Chỉ đến khi chính Chôshuu có những vụ xung đột với phía mạc phủ (vụ Ikedaya 1864,vụ Kinmon 1864, hai lần bị chinh phạt 1864, 1866) và ăn đạn của liệt cường (vụ tàu 4 nước pháo kích Shimonoseki, 1864) và nỗ lực hàn gắn và chuyển hướng của những nhà lãnh đạo trẻ và võ sĩ cấp thấp (Sakamoto Ryôma, Saigô Takamori, Kido Takayoshi, Takasugi Shinsaku...) thì mới thay đổi cách nhìn để từ đấy, có một sự liên kết lâu dài với Satsuma [12] và bắt đầu chung sức cho một công cuộc đổi đời đại qui mô vượt qua biên giới của phiên trấn.

Năm 1867 (Keiô 3), sau khi Hội nghị 4 chư hầu (Shimadzu Hisamitsu của Satsuma, Yamanouchi Toyoshige của Tosa, Date Munenori của Sendai, Matsudaira Yoshinaga của Fukui) thất bại vì không tìm ra giải pháp trung dung, họ bắt buộc chọn đề nghị của Tosa là khuyên mạc phủ trao trả quyền hành cho triều đình (Đại chính phụng hoàn). Thế nhưng đây có thể cũng là kế sách của Shôgun thứ 15 Yoshinobu muốn lập ra thể chế "công nghị", một thứ mạc phủ không có danh xưng mạc phủ, hòng kéo dài thời gian cho nhà chúa. Điều đó làm cho mật chiếu thảo mạc mà Iwakura Tomomi và liên minh Satsuchô vừa xin được không còn đối tượng nên bị hụt hẫng. Vì thế phía liên minh mới họp nhau ban hành Daigôrei (Đại hiệu lệnh vương chính phục cổ) và đưa yêu sách bắt Yoshinobu "từ quan nạp địa"mà ta sẽ nói đến.
 

4.2 Trao trả quyền hành cho triều đình. Mạc phủ Edo hạ màn:

Sau khi Shôgun Iemochi (Gia Mậu) chết rồi, người từng tranh cái ghế Shôgun đời thứ 14 với Iemochi là Tokugawa (Hitotsubashi) Yoshinobu đã trở thành Shôgun đời thứ 15.

Yohinobu có điểm tựa là viên công sứ Pháp Roches và đã mượn sức của ông này để thi hành việc cải cách hành chánh, mong đem lại cho chính quyền mạc phủ của mình một sức mạnh nào đó.

Mặt khác, phiên Satsuma đã kịch liệt đối kháng với việc triều đình muốn trừng phạt Chôshuu. Bởi vì đã liên kết với Chôshuu (Sát-Trường liên hợp), nhân đó họ yêu cầu triều đình hãy thẩm nghị lại để giảm tội cho phiên ấy nhưng tân Shôgun Yoshinobu cho rằng phải đặt chuyện thương lượng mở cửa hải cảng Hyôgo hay không với người ngoại quốc mới là vấn đề tiên quyết. Rốt cuộc hai bên không ai nhường ai, thành ra đối thoại lâm vào bế tắc.


Tokugawa Yoshinobu (1837-1913)

Kể từ lúc ấy, Satsuma và Chôshuu đồng ý với nhau rằng phải dùng võ lực để lật đổ mạc phủ chứ không còn cách nào khác.Họ câu kết với Iwakura Tomomi (Nham Thương, Cụ (Câu) Thị, 1825-1883), một công khanh hiện có thế lực vào bậc nhất trong triều đình. Ngày 14 tháng 10 năm 1867 (Keiô 3) họ đã thành công nắm trong tay tấm mật chiếu với lời dụ "Hãy lật đổ mạc phủ!". Lấy sắc chiếu đó làm hậu thuẫn, liên minh Satchô (Sát Trường) rục rịch thực hiện giải pháp quân sự, thế nhưng họ đã cuốc lấy thất bại. Chỉ vì một ngẫu nhiên kỳ lạ là, trong cùng một ngày ấy, Shôgun Yoshinobu đột nhiên tuyên bố trao trả chính quyền cho triều đình. Sử Nhật gọi biến cố đó là Taisei hôkan (Đại chính phụng hoàn).

Đúng ra, phái chủ trương dùng biện pháp quân sự để lật đổ mạc phủ trong liên minh Satchô muốn nói rằng: "Chính trị của mạc phủ không đi đúng hướng, phải lật mạc phủ để tổ chức một chính quyền mới mà triều đình đóng vai trò chủ chốt!" Thế mà bây giờ chính quyền họ muốn lật đổ đã trao lại quyền hành một cách dễ dàng như vậy, thành thử liên minh không còn có cái "đại nghĩa danh phận" họ mong muốn.Nói cách khác, sắc chiếu "thảo mạc" không có đối tượng và mất hết ý nghĩa.

Người đã khuyên Shôgun Yoshinobu trao trả chính quyền là một nhân vật thuộc phái "công vũ hợp thể", nguyên lãnh chúa phiên Tosa, Yamauchi Toyoshige (Sơn Nội, Phong Tín, 1827-1872). Ông được ca tụng như một trong bốn người lãnh đạo sáng suốt (hiền quân) cuối đời mạc phủ. Yamauchi đã nghe theo lời đại thần của phiên Tosa tên là Gotô Shôjirô (Hậu Đằng, Tượng Nhị Lang, 1838-1897) nên mới hiến kế cho Shôgun. Còn như nói về người đã thuyết phục Gotô theo chủ trương đó thì không ai khác hơn là một chí sĩ của phiên Tosa, Sakamoto Ryôma (Phản Bản, Long Mã, 1835-1867). Ryôma cũng là trang tuấn kiệt đã thành công một việc cực kỳ khó khăn là nối kết 2 phiên Satsuma và Chôshuu - những người vốn chỉ chực tuốt kiếm diệt nhau - để họ trở thành đồng minh.


Sakamoto Ryôma (1839-1867)

Tóm lại, vai trò và dấu ấn của Ryôma rất lớn lao sâu sắc trong chính trị cuối thời mạc phủ. Đáng tiếc là một tháng sau việc nói trên xảy ra, Ryôma đã bị một nhóm người lạ mặt ám sát chết lúc mới có 32 tuổi trong một căn nhà trọ ở giữa Kyôto. Tuy không rõ phạm nhân là ai (mạc phủ hay Satchô) nhưng có sác xuất lớn là ông đã chết dưới bàn tay của liên minh Satchô. Lý do là những người này đang tức tối vì biện pháp hòa bình mà ông đề xướng đã làm bọn họ xôi hỏng bỏng không [13]. Dù sao, ngày nay, người Nhật tôn xưng ông như người anh hùng số một của công cuộc đổi mới thời Meiji.
 
 
Katsu Kaishuu và Sakamoto Ryôma [14]

Hai nhân vật mà địa vị chính trị và định mệnh hầu như khác hẳn lại có mối giao tình rất đặc biệt trong cảnh sóng to gió lớn của chính trường cuối đời mạc phủ.Hai người đã quen nhau lúc Ryôma lên Edo trau dồi kiếm thuật và trưởng thành như một chí sĩ từ phiên Tosa với hoài bảo tôn quân nhương di. Đó là năm 1862 (Bunkyuu 2), Ryôma 28 tuổi. Có người bảo Ryôma lúc đó đi cùng một kiếm khách, Chiba Jutarô, tìm gặp Katsu Kaishuu, với ý định nếu chính kiến bất đồng thì sẽ giết bỏ. Thế nhưng theo những nghiên cứu gần đây thì sự thể không hẳn xảy ra như vậy. Ông đã tìm gặp Kaishuu một cách thân thiện qua sự giới thiệu của cựu phiên chủ vùng Echizen là Maitsudaira Yoshinaga. Có lẽ lúc ấy Ryôma đã thay đổi lập trường chính trị cứng rắn của mình và đang đi tìm một đường lối khác thỏa đáng hơn.Còn Kaishuu thì đã 40, có địa vị vững vàng của một mạc thần giữ trọng trách trong hải quân. Theo như lời thuật lại, Kaishuu đã thuyết phục được Ryôma tại chỗ để ông chuyển hướng theo lập trường của mình. Người ta xem đây là một cuộc gặp gỡ rất quan trọng trong lịch sử Nhật Bản cận đại.

Kaishuu sinh năm 1823 (Bunsei 6) ở Edo, xuất thân gia đình hatamoto tức nhóm cận thần của Shôgun nhưng nhà lại thanh bần. Ông học kiếm thuật và sau đó theo cái học Hà Lan do ảnh hưởng của Sakuma Shôzan, một nhà tư tưởng tiến bộ thời ấy. Khi Perry đến Nhật, ông đã dâng kế sách phòng thủ bờ biển (Hải phòng luận) và cải cách binh chế theo lối Tây phương. Lập luận ấy được chính quyền để mắt tới và dùng ông, lại cho đi học trường đào tạo hải quân đầu tiên ở Nagasaki. Năm 1860, ông đã đủ sức điều khiển chiếc tàu kiểu mới tên là Kanrinkan hộ tống sứ thần Nhật Bản vượt đại dương đến Mỹ. Khi về nước, ông lại dạy pháo thuật ở trường hải quân và trở thành một trụ cột của quân đội Nhật.

Ryôma nhỏ hơn Kaishuu 12 tuổi. Ông sinh năm 1835 (Tenpô 6) trong một gia đình thân hào địa phương ở Kochi trên đảo Shikoku.Thuở nhỏ nhút nhát nhưng nhờ theo học kiếm thuật mà thay đổi tính khí. Khi Perry đặt chân lên đất Nhật, ông đang tu nghiệp kiếm thuật ở Edo. Gặp gỡ Kaishuu trước và Kawata Koryuu (Hà Điền, Tiểu Long) sau, ông đã chịu ảnh hưởng của hai người. Riêng Koryuu, trí thức hàng đầu của phiên Tosa, là họa gia phái Kanô, từng xuất bản hồi ký của Nakahama (John) Manjirô, một thiếu niên bị đắm thuyền được tàu Mỹ vớt đem về Mỹ, nhân đó biết nhiều về tình hình thế giới. Koryuu cũng từng xuống Nagasaki du học, tận mắt nhìn thấy những tiến bộ khoa học kỹ thuật Tây phương như lò phản xạ của phiên Satsuma...Do ảnh hưởng hai nhân vật nói trên mà tư tưởng nhương di trước đó của Ryôma chỉ còn có tính cách lý thuyết chứ không còn tồn tại trong thực tế. Về sau, Ryôma trở lại quê nhà, một thời đứng trong hàng ngũ các chí sĩ của phiên Tosa (Tosa cần vương đảng) nhưng chẳng bao lâu lại thoát phiên để có thể hành động tự do, không bị bó buộc vì kỹ luật quá khắt khe và cổ hũ của tập đoàn.

Kaishuu và Ryôma còn gặp nhau một lần nữa trong tình sư đệ ở trường huấn luyện hải quân Kobe. Con đường của hai người từ đấy tuy có khác nhưng đều cùng chung một mục đích là xây dựng một nước Nhật mới. Kaishuu ở bên trong guồng máy của mạc phủ mà vẫn không ngừng tham gia vào những hoạt động cải cách. Ryôma ở bên ngoài, lúc đi buôn, lúc sống đời lãng sĩ mà vẫn bàn tính cùng Saigô Takamori, Komatsu Tatewaki, Kido Takayoshi... tìm mọi cách thuyết phục các hùng phiên cộng tác với nhau, đòi hỏi mạc phủ trả lại chính quyền cho nhà vua nhằm thống nhất tiềm lực quốc gia, một điều rất cần thiết để đổi mới đất nước. Tuy Thuyền trung bát sách (Senchuu hassaku, Tám kế sách nghĩ ra khi ngồi trên thuyền, 1867) và Phiên luận (Bàn về các phiên) của Ryôma hãy còn chưa chín chắn nhưng nó đã thành công vì trực tiếp dẫn đến sự kiện "đại chính phụng hoàn" của Shôgun cuối cùng, Tokugawa Yoshinobu. Nội dung của Thuyền trung bát sách như sau:

1- Trao trả chính quyền trong thiên hạ về cho triều đình.

2- Đặt ra 2 nghị chính cục, thượng và hạ, trong đó các nghị viên sẽ cùng nhau bàn việc nước .

3- Dùng nhân tài bất luận công khanh, chư hầu hay những người khác, bãi các quan lại cho đến nay đã tỏ ra bất tài, hữu danh vô thực.

4- Mở rộng quan hệ với ngoại quốc, ấn định với họ những qui ước thỏa đáng.

5- Dung hòa pháp luật mới và cũ, làm ra một đại điển với nội dung uyển chuyển, thường xuyên mở rộng

6- Phải xây dựng, phát triển hải quân.

7- Phải đặt ra đội thân binh để bảo vệ Thiên hoàng và đế đô.

8- Thiết lập phép bình quân về vàng bạc hóa tệ với nước ngoài.

Người ta nhận thấy rằng cách nhìn tương lai Nhật Bản của Ryôma trong Thuyền trung bát sách của Ryôma không hẳn đúng với chính sách mà chính phủ phiên phiệt Satchô sẽ thực hiện về sau. Ryôma bị ám sát, mất sớm ở tuổi 32 (1867) không nhìn thấy sự nghiệp duy tân thành tựu nên ta không thể biết phản ứng của ông lúc đó sẽ như thế nào. Còn Kaishuu thì sống đến năm 1899 (77 tuổi) sau khi đã hiệp nghị thành công với Saigô Takamori để thực hiện việc thành Edo hàng phục chính quyền mới mà không đổ máu. Tuy là Thượng thư Bộ Hải Quân và Cố vấn Xu Mật Viện thời Duy Tân nhưng ông không đóng vai trò chủ yếu trên vũ đài chính trị và thường phê phán chính phủ, nhất là trong thái độ của họ đối với Trung Quốc nhà Thanh. Có thể qua đó mà ta tưởng tượng được phản ứng của Ryôma nếu ông còn sống.


Katsu Kaishuu ( 1823-1899), 
kẻ bại trở thành thắng

Việc Shôgun Yoshinobu ra tay trước đã làm cuộc chuẩn bị dùng biện pháp quân sự để lật đổ mạc phủ do 2 phiên Satchô chủ trương bị ngừng lại. Thế nhưng chỉ mấy hôm sau, ngày 9 tháng 12 năm ấy, họ đã vận động để triều đình ban lệnh phục hồi quyền hành của Thiên hoàng (Ôsei fukko no Daigôrei = Vương chính phục cổ đại hiệu lệnh, 1867, từ đây gọi tắt là Daigôrei).

Trên thực tế, lệnh này tuyên cáo việc thành lập chính quyền mới do Thiên hoàng Meiji (Minh Trị, tại vị 1867-1912, sống 1852-1912) lãnh đạo sau khi nhận được quyền bính do nhà chúa trao trả. Lệnh này cũng có ý nghĩa là chính thức dẹp bỏ mạc phủ kể từ đấy. Các chức vụ có tự thời xưa như sesshô (nhiếp chính), kanpaku (quan bạch) nhân đó cũng không còn tồn tại nữa.Kể từ đây, tân chánh phủ sẽ được điều khiển bởi sanshoku (tam chức) tức 3 chức vụ trọng yếu: sôsai (tổng tài), gijô (nghị định) và sanyo (tham dử, tham dự). Có thể nghiên cứu sử liệu bên ngoài để hiểu rõ hơn về nội dung của Đại hiệu lệnh (Daigôrei) này.

Chính phủ mới đặt các người có thế lực trong các phiên nổi tiếng vào chức san.yo (tham dử, tham dự). Hình thái của chính quyền do đó phản ánh sự kết hợp thế lực của các "hùng phiên". Các vị được chỉ định vào chức sanyo là Saigô Takamori và Ôkubo Toshimichi của phiên Satsuma,Gotô Shôjirô, Fukuoka Takachika của phiên Tosa, về sau thì có thêm Kido Takayoshi và Hirosawa Saneomi của Chôshuu.


Gotô Shôjirô (1838-1897) 
có công kêu gọi mạc phủ trao trả quyền hành

Thế nhưng tại sao hãy còn có người vẫn xem việc ban hành Daigôrei để phục hồi vương quyền như một cuộc đảo chánh của phái "thảo mạc" đối với mạc phủ? Đó là vì khi chọn kế sách "hùng phiên liên hợp" để thành lập tân chánh phủ, phái thảo mạc đã cố tình ngăn chặn khả năng Shôgun cũ là Tokugawa Yoshinobu có được một chân đứng trong chính quyền mới.

Cho dù không còn là Shôgun nữa nhưng Yoshinobu vẫn là người đứng đầu đại tộc Tokugawa, là một lãnh chúa có đất đai và thế lực lớn nhất Nhật Bản. Không cho ông gia nhập chính quyền mới chính ra là một quyết định không ổn thỏa. Vì vậy người ta mới đi đến kết luận là hai phiên Satchô, với chủ trương dùng quân sự để đánh đuồi mạc phủ, đã làm một cuộc chính biến bằng văn bản để loại trừ hẳn ảnh hưởng của thế lực nhà chúa.

Ngay cái đêm mà Daigôrei phục hồi vương quyền được đưa ra, các nhân vật nắm giữ "tam chức" (lãnh chúa và trọng thần của 5 phiên Owari, Echizen, Aki, Tosa, Satsuma) đã có một cuộc hội họp với sự chủ tọa của Thiên hoàng Meiji. Phiên họp này có tên là Kogosho kaigi (Tiểu ngự sở hội nghị) - nói khác đi - đó là phiên họp của một triều đình thu nhỏ. Trong phiên họp này, hai phái "thảo mạc" và "công vũ hợp thể" đã kịch liệt đối lập với nhau.

Vấn đề chính đã được đem ra bàn cãi là số phận của Yoshinobu. Cuộc nghị luận không xảy ra một cách êm thắm nhưng ngược lại, đã rất gay cấn giữa "tam chức", đến khuya mới ngã ngũ. Kết cuộc, phái thảo mạc đã chèn ép được phái "công vũ", bắt Shôgun Yoshinobu từ chức Naidaijin (Nội đại thần) và trả lại đất phong (jikannôchi = từ quan nạp địa).

Thực ra trong cuộc họp, phái có cảm tình với gia đình Tokugawa (gọi là Kôgi seitaiha = Công nghị chính thể phái, chủ trương bàn luận chính trị công khai) vốn đông hơn phái muốn đánh đổ mạc phủ bằng võ lực.Người như Yamanouchi Toyoshige (từng chủ trương công vũ hòa hợp) của phiên Tosa còn chủ trương phải mời cả Tokugawa Yoshinobu tham dự cuộc họp, cực lực đối đầu với luận điệu bài xích mạc phủ của Ôkubo Toshimichi phiên Satsuma và công khanh Iwakura Tomomi.

Nhưng rồi phái chủ trương sử dụng võ lực để thảo mạc đã đè bẹp được phái "công nghị" thiên về thương thảo. Nhân vì Ôkubo và Iwakura đe dọa sẽ sẳn sàng chém giết nhau với những ai muốn ủng hộ Yoshinobu nên lúc đó, nhóm các ông Yamanouchi phải đành ngưng đấu lý nhưng không vì thế mà xem như vấn đề đã giải quyết xong.

Dù muốn dù không, có thể nói quyết định của hội nghị trên thật quá tàn nhẫn đối với gia đình Tokugawa. Thế nhưng cũng chính vì lý do đó mà những người theo phái công nghị vốn có cảm tình với Yoshinobu thấy mình chưa thể hoàn toàn buông tay chịu trận. Sự việc như thế nào, chúng ta sẽ thấy trong những trang sau.

Đổi hướng câu chuyện một chút và cũng để kết thúc chương này, hãy bàn qua về văn hoá cuối đời mạc phủ, thời điểm mà chính phủ mới chuẩn bị thành lập.

Số là sau khi mở cửa biển và giao thương với nước ngoài, Nhật Bản đón tiếp nhiều người ngoại quốc đến nước mình.Dĩ nhiên hơn phân nữa là những nhà buôn lo chuyện mậu dịch nhưng cũng có nhiều giáo sĩ truyền đạo Ki-tô. Những người này nhiệt tâm hoạt động trong lãnh vực giáo dục và ngay cả việc phát hành báo chí. Trong bọn họ, có người Mỹ James Curtis Hepburn (1815-1911), một y sĩ. Ông đã mở một phòng khám bệnh để chữa chạy cho người trong nước và ngoài ra còn mở trường dạy tiếng Anh, tích cực truyền bá văn hoá Tây phương cho người Nhật.
 
 
Nhà văn hoá J.C. Hepburn và những người Tây phương đầu tiên

J.C.Hepburn vốn theo đạo Tin Lành phái Trưởng Lão (Presbyterian Church). Người đa tài, vừa là thầy thuốc, nhà truyền giáo, nhà giáo dục và học giả ngành ngôn ngữ, xuất thân danh môn Princeton. Ông đặt chân đến Nhật vào năm 1859 (Ansei 6) tức vài năm trước thời Nhật Bản mở cửa. Bên cạnh việc chữa bệnh và truyền đạo, ông đã soạn bộ từ điển Anh Nhật-Nhật Anh nhan đề Hòa Anh Ngữ Lâm Tập Thành (1867). Ông đã sáng tạo cách phiên âm tiếng Nhật qua chữ La Mã (được biết như hệ thống Romaji của Hepburn) mà ngày nay đã trở nên thông dụng trong học giới. Ông cũng đã thành lập Meiji Gakuin (Minh Trị học viện) và là viện trưởng đầu tiên của trường này cũng như đóng góp nhiều trong việc dịch Kinh Thánh qua tiếng Nhật. Ở thành phố Kanagawa, người ta quen gọi ông là Dokutoru Hebon (Dr Hepburn) nên ông cũng tự đặt cho mình tên Nhật là Hebon (Bình Văn). Năm 1892 (Meiji 2), Hepburn về nước, sống đến 96 tuổi.


Tiến sĩ kiêm bác sĩ y khoa James Curis Hepburn 
(1815-1911)
Sau đây là những người Tây phương khác đã đóng những vai trò quan trọng trong lịch sử Nhật Bản thế kỷ 19.
Tên tuổi

(Quốc tịch)

Năm sinh và mất Thời kỳ lưu trú Kinh lịch
Townsend Harris (Mỹ) 1804-1878 1856-62 Lãnh sự (sau là Công sứ) đầu tiên. Ký kết Hiệp ước giao hiếu thông thương Mỹ Nhật. Tác giả hồi ký "Thời lưu trú ở Nhật Bản". 
Hendrik Huysken

(Hà Lan)

1832-60 1856-60 Thông dịch viên cho Townsend Harris ở công sứ quán Mỹ. Bị nhóm lãng sĩ giết hại..
Sir Rutherford Alcock

(Anh)

1809-97 1859-64 Tổng lãnh sự (sau là Công sứ). Chủ trì việc pháo kích Shimonoseki của lực lượng 4 nước. Tác giả Taikun no miyako (Kinh đô của đại quân). "Đại quân" ám chỉ Shôgun.Nguyên ủy của chữ tycoon.
Sir Harry Parkes (Anh) 1828-85 1865-83 Công sứ. Đối lập với Công sứ Pháp Léon Roches. Ủng hộ Liên minh thảo mạc Satchô. Tác giả xã thuyết "Bàn về chính sách nước Anh".
Sir Ernest Satow

(Anh)

1843-1929 1862-69

1870-82

Lãnh sự ở Nhật. Nỗ lực trong việc xin phê chuẩn hiệp ước Nhật Anh. Có viết "Cuộc Duy Tân Minh Trị dưới mắt một nhà ngoại giao".
Léon Roches

(Pháp)

1809-1901 1864-68 Công sứ. Đối lập với Công sứ Anh Harry Parkes. Ủng hộ mạc phủ và từng kiến nghị Shôgun Yoshinobu thi hành cải cách.

So với Hepburn và trong một chiều hướng ngược lại, khi nói đến việc giới thiệu văn hoá Nhật Bản cho người phương Tây phải nhắc tới viên công sứ người Anh (Sir Rutherford) Alcock (1809-1897). Ông là ngoại giao đầu tiên của người Anh đến phó nhậm ở Nhật, đã thu thập nhiều đồ mỹ nghệ để trưng bày ở hai Hội chợ quốc tế (Việt Nam xưa gọi là "đấu xảo") ở London (1862) và Paris (1867), cống hiến to lớn cho việc quốc tế đánh giá cao văn hoá Nhật Bản. Nhân các hội chợ vừa kể, các tác phẩm ukiyoe của Katsushika Hokusai đã được đem ra trưng bày.
 

Sir Rutherford Alcock (1809-1897)
Sir Ernest Mason Satow (1843-1929)
Chư phiên Nhật Bản cũng lần hồi tiếp thu văn hoá và chế độ của Âu Mỹ nhờ ở những du học sinh họ gửi ra nước ngoài [15]. Kể từ sau việc thiết lập Yôshoshirabesho (Dương thư điều sở) là nơi thu thập tra cứu, phiên dịch sách vở phương Tây, hậu thân của Bansho shirabesho (Phiên thư điều sở) vốn có ý nghĩa là nơi thu thập tra cứu sách vở của ngoại quốc (phiên), cơ sở này lần lượt đổi tên thành Kaiseijo (Khai thành sở) rồi Kaisei gakkô (Khai thành học hiệu) và cuối cùng là Đại học Tôkyô bây giờ. Từ nơi đây, hai giáo sư là Nishi Amane (Tây, Chu, 1829-1897) và Tsuda Mamichi (Tân Điền, Chân Đạo, 1829-1903) đã sang Hà Lan. Phiên sĩ Chôshuu là Itô Hirobumi (Y Đằng, Bác Văn, 1841-1909) và Inoue Kaoru (Tỉnh Thương, Hinh, 1836-1915) cũng như phiên sĩ Satsuma là Mori Arinori (Sâm, Hữu Lễ, 1847-1889) đã sang Anh du học.Fukuzawa Yukichi (Phúc Trạch, Dụ Cát, 1884-1901), một võ sĩ cấp thấp của phiên Nakadzu trên đảo Kyuushuu cũng theo sứ bộ của mạc phủ thăm viếng Mỹ và Âu châu để thu thập kiến văn. Đó là những nhân vật về sau đã góp phần xây dựng cơ sở cho văn hoá và học thuật thời Meiji.
***
 ----------------------
[1] - Guillaume Carré, Histoire du Japon, sđd, tr.930.

[2] - G. Carré phiên âm kiểu Pháp là Efim Alexeivitch Poutiatine. (tr 930).

[3] - Người ta ngờ rằng Harry Smith Parkes, sau làm Công sứ ở Nhật và chủ trương "ngoại giao pháo hạm", là người giật giây đằng sau.

[4] - Nguồn: Ishii Takashi, Nghiên cứu lịch sử mậu dịch cuối thời mạc phủ

[5] - Histoire du Japon, tr.945

[6] - Trần Lượng, học giả đầu đời Nam Tống, một trung thần có lòng kinh thế tế dân. Ông là khuôn mẫu của người trí thức thời cuối Mạc phủ.

[7] - Nguồn Uno Naoto, Kanshi wo yomu (Nihon no Kanshi, Edo no koki), NHK xuất bản, tr.180-182.

[8] - Trong khi tướng Pháp Jules Brunet hướng dẫn phái đoàn cố vấn quân sự bên cạnh mạc phủ theo lệnh Napoléon III thì thương nhân người Anh Thomas Glover cung cấp súng ống tối tân và cả trọng pháo cho Satsuma. Nói chung, tuy quân mạc phủ dù được Pháp trang bị súng ống và cả tàu chiến nhưng hỏa lực kém hẳn quân triều đình.Riêng đội viên Shinsengumi chủ yếu sử dụng kiếm kích.

[9] - Trong Nhật ngữ, từ tôbaku có thể viết là thảo mạc (đánh đuổi mạc phủ, như trong cụm từ sonnô tôbaku = tôn hoàng, thảo mạc) hay đảo mạc (lật đổ mạc phủ).

[10] - Guillaume Carré (Histoire du Japn, tr.975) cho rằng một bài xã thuyết của Ernest Mason Satow được dịch sang tiếng Nhật nhan đề Eikoku sakuron (Bàn về chính sách của nước Anh) trên tờ Japan Times (dưới bút danh) vào năm 1866 đã phản ánh quan điểm này.

[11] - Guillaume Carré, Histoire du Japon (Hermann xb), tr.983.

[12] - Mọi việc xảy ra rất nhanh chóng. Minh ước Satsuma và Tosa thực hiện vào tháng 6 năm 1867 (Keiô 3). Sang tháng 9 cùng năm thì 3 phiên Satsuma, Chôshu và Aki cũng lập minh ước đánh đổ mạc phủ. Ngày 14 tháng 10, Shôgun Yoshinobu thượng tấu trao trả chính quyền cho triều đình (Đại chính phụng hoàn). Tháng 11, Ryôma và bạn đồng chí là Nakaoka Shintarô bị ám sát chết ở Kyôto.

[13] - Về sau, quân triều đình mà đại bộ phận là Liên minh Satchô đã đem thủ lãnh Kondô Isami của Shinsengumi ra xử, trong số những tội danh có việc giết Ryôma nhưng đâu là sự thật?.

[14] - Theo Story Nihon no reshi, Yamakawa xuất bản, tr.6-7.

[15] - Phân loại thì trong số 135 người được gửi đi du học ngoại quốc từ 1862 đến 1867, gồm 62 mạc thần, 58 phiên sĩ và 15 người khác. (Nguồn: Cận đại Nhật Bản hải ngoại lưu học sử).