Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về   ]            [ Trang Chủ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932
*
NHỮNG VỤ ÁN VĂN HỌC THẾ HỆ 1932

Thanh Lãng

A - Đặc tính chung thế hệ 1932 
 B - Sinh hoạt Phê bình văn học thế hệ 1932
C - Những Vụ Án Văn Học Thế Hệ 1932   :
  1 - Vụ Án Báo Chí   /  2 - Vụ Án Cũ và Mới  /   3 - Vụ Án Phan Khôi - Trần Trọng Kim 
4 - Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi    /   5 - Vụ Án Quốc Học 
6 - Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới
D - Mặt trận bênh thơ mới (1)    /  Mặt trận bênh thơ mới (2)  /  Mặt trận bênh thơ mới (3) 
E - Phản ứng làng thơ cũ / F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam

Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới
A- Mặt trận bênh thơ mới (3)
Phan Văn Hùm phê bình nhà thơ Xuân Giang, tức Đông Hồ
Ngày 3 tháng 5 năm 1934 (P.N.T.V. số 240), Phan Văn Hùm đã viết bài " Thảo luận về thi  : Nguồn thi cảm mới " để phê bình về tập thơ "Nguồn thi cảm mới " của Xuân Giang, tên tác giả của Đông Hồ Lâm Tấn Phác.

Phan Văn Hùm đã ví thơ mới của Xuân Giang với thơ của thi hào Sully Prud'homme của Pháp :

" Theo lời của ông Đông Hồ ở trong số báo " Việt Dân " ra ngày 7 Avril 1954, thời một nhà thi sĩ sành về thơ cũ, ông Xuân Giang có một tập thơ tên là " Nguồn thi cảm mới " :

" Hai bài : 1. Cái hôn lần đầu - 2. Cô gái xuân. trích tập thơ nầy đăng ở báo " Dân Việt " có cái giọng thật là mới mẻ. Tôi không ngại gì mà không thú thật rằng, khi đọc qua, ngâm lại, tôi đã buông ra lời " in giọng Sully Prud'homme ! ". Nhưng mà đó là cái ý riêng của tôi, không đủ khinh trọng.

" Ở đây tôi dẹp lại những vấn đề lý luận cùng học phái. Tôi không muốn động dến vấn đề thơ cũ thơ mới, dẫu cho tôi hết sức hoan nghinh lối thơ sau, hết sức hoan nghinh bài " Bất chủ nghĩa " của Hồ Thích, hết sức hoan nghinh tập Les Douzes Poètes của bộ tùng thơ " Horizon ". Phan Văn Hùm đã có một lối phê bình thơ mới rất mới không đứng ở ngoài để khen câu này hay, chữ này khéo, ý này mạnh. Ông đã muốn bắt chước một kỹ sư, một kiến trúc sư...đi vào bên trong, hay đúng hơn nhìn công trình kiến trúc thơ từ bên trong :

" Tôi chỉ muốn đứng về phương diện nghệ thuật (art) không, tôi còn muốn thâu hẹp ranh rắp hơn nữa : tôi chỉ muốn đứng về phương diện kỹ thuật (point de vue technique) muốn vào trong công trường (atelier) vào trong trung điện mật nhiệm của nhà nghề, để xem cái tay thơ đương kiến trúc.

" Tôi sẽ xem được hay không, tôi xem mà sẽ thấy hay không ? Mặc kệ, cứ bước sấn tới thử xem.

" Trước hết tôi không muốn để chữ quốc ngữ nó làm lầm tôi, vì tôi đã quen với sự in lầm nhiều lắm rồi. Nghề in xứ này, thật là bất tiện quá.

" Hai bài thơ trích tập " Nguồn thi cảm mới " thể chất và cách điệu, cũng như nhau. Hai bài cũng chỉ có một chủ chỉ (un même thème) là cuộc cách mạng nổi dậy, do ái tình phiến động, làm khuynh đảo tâm hồn đương yên tĩnh êm đềm của người con gái, hoặc nói của " con người " cũng được

Thực vậy, qua mấy trang liền, cùng với việc trích văn để làm chứng, Phan Văn Hùm đã cố gắng lấy tư cách chuyên môn của nhà kỹ sư hay kiến trúc sư để vẽ lại cái họa đồ kiến trúc của thơ Xuân Giang. Đây các bạn nghe Phan Văn Hùm phê bình thơ mới của Xuân Giang Đông Hồ theo con mắt của kiến trúc sư :

" Tác giả dùng lối " bồi thấn " tả hai cái hiện tượng tiếp nhau mà khác nhau của một cái bản thể duy nhất, để làm cho càng biểu lộ những nét tế vi của nó ra .

" Vẽ cái bản thể của ái tình, là điều có phải dễ dàng đâu. Tác giả trở qua phía khác, mà cứ ở hiện tướng. Cái hiện tướng của ái tình, ở đây lại khéo mượn vật cụ thể (concret) để dụ dẫn, làm cho người đọc dễ cảm xúc. Hoặc lấy nước hồ khi bằng phẳng mà tả tâm hồn người chưa biết ái tình :

Mặt hồ lặng lẽ, xuân êm ái...
" Lại lấy nước hồ khi giợn sóng, mà tả cái tâm hồn người đã vào ái tình.
Một hôm gió giợn mặt hồ xao.
Ngọn sóng lòng em bỗng dạt dào.
" Hoặc lấy bóng râm, gió mát, bướm bay mà tả cái tâm hồn người chưa biết ái tình còn thưởng cảnh vật thiên nhiên một cách thản nhiên :
Lá rập cành xoài, bóng ngã ngang.
Cô em dừng bước nghỉ bên đường.
Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán.
Gió mát lòng cô cũng nhẹ nhàng.
...Vội vàng để vở lên bờ cỏ.
Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh.
" Rồi lại lấy bóng râm, gió mát, bướm bay mà tả cái tâm hồn người đã vương ái tình, đối cảnh mà tình tha thiết :
Lá rợp cành xoài, bóng ngã ngang.
Cô em dừng bước nghỉ bên đường
Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán
Gió mát, lòng cô những cảm thương.
...Ái tình nào phải bướm ngày xuân
...Một thoảng bay qua không trở lại
Trước sau cảnh một mà tình hai, hiện tượng dẫu hai mà bản thể vẫn một. Cái bản thể " một " không phải hai đó, tác giả biểu xuất được rất thần tình là nhờ cái kỹ thuật " trùng phục " đem lời tả cảnh trước mà tả lại cảnh sau. Trước sau lời dẫu có như nhau, mà kỳ trung vẫn khác. Khác ở ý nghĩa, khác ở chỗ đổi thay, thêm bớt hình dung từ (adjectif) hoặc trạng từ (adverbe).
Ánh sáng tưng bừng em chẳng cảm
Mặc chùm hoa nở, tiếng chim kêu.
" Là tâm hồn trước khi biết ái tình. Mà sau khi biết ái tình rồi thời
Ánh sáng tưng bừng, em hớn hở,
Chim kêu, hoa nở, cảnh vui sao !
Thời cũng người ấy, cảnh ấy, bản thể ấy, cũng
Trong xóm làng trên, cô gái thơ
Mà tình chưa nhồi sóng khi
Tuổi xuân mơn mởn vẻ đào tơ
" Thời tấm lòng yên tĩnh :
Gió đông mơn mởn bông hoa nở
Lòng gái xuân kia vẫn hẫng hờ.
" Chờ... rồi chợt thấy, gần như được. Nào ngờ thành ra một chuyện bắt bướm hụt, mà
Lững thững bên đường cô ngẩn ngơ
...Cô buồn, cô tiếc, cô ngùi ngậm
Cô nhớ ngày xuân, nhớ tuổi thơ
" Là cái tuổi " trong trẻo, bình minh ", còn
Lửng thửng lên đường buổi sớm chiều
" Mỗi một lượt thấy " bướm bay qua bãi cỏ xanh... " là một lượt " lòng phấp phới ".
Vội vàng để vở lên bờ cỏ
Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh
"  Đó là hai chỗ xuất sắc trong kỹ thuật tác giả.

" Một là dùng phép " bồi thấn " hai là dùng phép " trùng phục ". Phép nào tác giả dùng, thời tác giả cũng chủ nó được, điều khiển nó được cả.

" Ngoài ra, còn những cái đặc sắc, mà tôi không nỡ bỏ qua không nhắc đến. Như khéo dùng âm hưởng cho kêu câu văn :

Tuổi xuân hơn hớn vẻ đào tơ :
" Khéo dùng vật cụ thể dụ dẫn sự vô hình
Chim con nằm dưới tổ êm đềm
Lòng anh ấm áp, em sung sướng
Tình ái êm đềm như tổ chim.
" Nhứt là khéo dùng hình linh hoạt và có thể sắc làm thành những bức tranh nhỏ thần tình :
Ánh sáng tưng bừng
Hồi hộp nhìn em ngẩn ngơ...
Quần đen, áo trắng khăn hồng nhẹ
" Câu sau đó làm cho tôi nhớ câu :
Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô
" Hay là câu trong Chinh Phụ Ngâm
Áo chàng đỏ tợ ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
" Lối dùng màu này, Nguyễn Khắc Hiếu khéo dùng nhứt, trong bài hát xẩm, tựa là " Cô tây đen ".

" Tác giả lại có cái tài khéo dùng tiếng nói chuyện thường ngày, mà để vào cho hạp tình hạp tiết, thành ra " có duyên " như những tiếng :

Lòng em trong trẻo : Em không náo nức ;
Ánh sáng tưng bừng : - hồi hộp nhìn anh ;
Lửng thửng lên trường : - lửng thửng bên
đường : - lòng em phấp phới. - v.v...
" Kỹ thuật được như vậy, thi tứ dồi dào, khó mà luyện tập cho nên. Tiếc vì, về tự nghĩa, sao chừng như tác giả không chắc cho mấy, hay là không lưu tâm đến mấy. Tôi không hiểu như nước triều mà tác giả dùng, nghĩa ra làm sao. Cứ như câu :
Đầy đặn lòng em, mặt nước triều,
" Thời chữ triều có nghĩa là yên lặng. Mà thủa nay thời cái nghĩa của nó là lưu động xem như câu truyện Kiều nói :
Ngọn triều non bạc trùng trùng...
" Còn về cái tổ " ổ " chim, thời có thể dùng tiếng dưới mà chỉ cái đáy nó hay không, mà nói :
Chim non nằm dưới tổ êm đềm ?
" Lại còn tiếng mơn trớn, tác giả hiểu nghĩa nào mà nói là :
Gió đông mơn trớn bông hoa nở ?
" Tôi cũng lại không biết ngẩn ngơ tác giả hiểu làm sao mà :
Hồi hộp nhìn anh em ngẩn ngơ
Lững thững bên đường cô ngẩn ngơ.
" Tôi không dám nói nhiều lời nữa, chỉ còn muốn hỏi xem tác giả dùng tiếng Nam tiếng Bắc trộn trạc là ý làm sao.

" Tổ chim (Bắc) - mồ hôi (Nam) - giọt lệ (Bắc) - rỏ lệ (Bắc).

Sau khi phân tích tỉ mỉ kỹ thuật của Xuân Giang, Phan Văn Hùm đã để những lời kết luận cực tán thơ mới, và tin vào thơ mới như sau :

" Mà đó chỉ là những chỗ sơ lậu cỏn con, không có nghĩa gì, không có phương hại gì cho cái thi tài của tác giả, là người thật có biệt tài. Tôi chưa được dịp biết nhà thi sĩ nào trong làng văn chữ nho hay quốc ngữ, mà lìa bỏ được cái phóng tứ mơ màng, đuổi rượt những cái tư tưởng vu vơ theo gió trăng, non nước, cùng những cái tư tưởng thông thường về nhân tình thế sự, nghĩa là lìa bỏ được cái ngoại giới mà quay trở về mình, chú lực vào trong thân trong mình, để miêu tả nội giới hay không ? Thật tôi chưa từng thấy có, mà cũng có lẽ tại kiến văn tôi cô lậu thật.

Nay thấy ông Xuân Giang là một. Cái ráng sức mà nội tỉnh đó (cet effort d'introspection) cái ráng sức mà phân tích (cet d'effort d'analyse) những nỗi uẩn trong tâm hồn đó, là một điều rất đáng hoan nghênh và tưởng lệ. Giả thử tôi mà có văn tài thế lực thì tôi không ngại gì giới thiệu ông Xuân Giang một cách sốt sắng về phương diện kỹ thuật mà thôi. Tôi nói " về phương diện kỹ thuật mà thôi " là khen kỹ thuật vị tất là khen người về phương diện khác, một là bởi không bằng cứ được ở nơi sự thành tựu của một người phụng sự một cái chủ nghĩa nghệ thuật nào, mà dám quyết rằng người ấy sẽ thành tựu, khi phụng sự một cái chủ nghĩa nghệ thuật khác, nhứt là cái chủ nghĩa nghệ thuật có hàm lý tưởng xã hội. "

Đông Hồ lên tiếng trả lời Phan Văn Hùm, tự nhận là Xuân Giang
Sau bài phê bình của Phan Văn Hùm, ngày 24-5-1934, Đông Hồ lên tiếng cũng trên Phụ Nữ Tân Văn (số 243) để tự tố cáo cái tên tác giả Xuân Giang là chính tên của Đông Hồ, tức người giới thiệu thơ Xuân Giang trên báo Việt Dân với Xuân Giang chỉ là một người.

Đây lời Đông Hồ giải thích lý do tại sao ông phải giả thác như vậy :

" P.N.T.V. số 240, ngày 3-5-34 vừa rồi, ông Phan Văn Hùm đã đứng về phương diện nghệ thuật mà phê bình hai bài (1- Cái hôn lần đầu, 2- Cô gái xuân) trích ở tập " Nguồn thi cảm mới". Cuối bài có mấy chỗ, vì Phan quân còn ngờ nghĩa nên hỏi lại. Nay tôi xin viết bài kính đáp nầy.

" Trước khi vô bài, tôi xin mở cái dấu ngoặc.

" Tôi xin chịu tội với Phan quân và với cả các bạn độc giả báo Việt Dân số 6 và độc giả P.N.T.V. số 240 cái tội đã nói dối. Nói dối vì tôi đã đem hai chữ Xuân Giang mà che đậy cái tên mình rồi lại giới thiệu thơ của mình làm một cách ân cần, tội nhứt là trong lời phê bình đó có một ít tiếng khen, là lời giới thiệu mình mà tự mình lại khen mình.

Nguyên tôi muốn đem hai bài thơ nọ đăng báo khi toan gởi đi tôi lại sợ để trơn như vậy khi đăng báo, tất nhà báo cho đăng lộn vùi trong đám rừng " thơ nay " độc giả tất không để ý xem đến. Tôi có cái ý nghĩ đó vì khi làm xong hai bài thơ, không dám nghĩ được xứng đáng như lời khen lao của Phan quân, chớ cũng tự biết là nó có một ít đỉnh giá trị đặc biệt. Và đem đăng báo là tôi có muốn cho độc giả nhận thấy cái đặc biệt của nó ở chỗ thoát được cái tư tưởng ý tứ " xôi thịt " của thi ca ta, chính tôi cũng đã từng châu tuần một lúc lâu trong cái phạm vi tư tưởng ý tứ " xôi thịt " đó rồi. Đó là bởi thành thực muốn mở một thể thế, một cách lập luận mới cho thi ca nước nhà, chớ quyết không phải bởi lòng tự khoa tự đại. Vậy thì cần phải có một ít lời giới thiệu. Đáng lẽ thì viết bài giới thiệu đó là về phần tòa soạn của báo V.D. Nhưng tôi ở xa xuôi cũng bất tiện. Nơi gần thì tôi không kiếm được ai - ở một nơi cô lậu hẻo lánh, nó có những sự thiệt thòi cho học vấn như thế - nơi xa thì bất tiện. Đánh bạo, tôi đành phải dùng cái phương " giả thác ". Giả thác ra đó là thơ của một người bạn mà mình đứng ra giới thiệu, nên trong lời giới thiệu tôi dùng tiếng để gọi tác giả là :" anh Xuân Giang " là cái cách kêu gọi thân thiết như tiếng thường dùng trong văn tiểu thuyết, chuyện bịa đặt, chớ không dám ngay thẳng mà gọi là " ông Xuân Giang " vì theo phép giao tế, đem một nhà thi sĩ giới thiệu với quốc dân trên báo chương thì phải gọi là " ông " chớ sao được gọi là " anh ".

" Nay Phan quân đã phê bình đến một cách nghiêm trọng thành thực thì tôi thiệt không dám dấu cái tên mà không xứng, không dám nuôi sự giả thác - hay muốn nói là sự giả dối cũng được - ấy mãi, mà phải thành thực cùng Phan quân tiếp chuyện bày tỏ cái duyên cớ như trên, để trước là khỏi để làm lầm nhà phê bình, sau là để khỏi lầm cho độc giả. Lại một sự giả thác đó, cũng nên cải chính, sớm muộn rồi cũng phải làm, để tránh khỏi nhiều điều lầm lẫn về sau trong thi giới. "

Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới
Tiểu Thuyết Thứ Bảy đối với phong trào thơ mới cũng không kém sôi nổi. Người lên tiếng nhiều trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy cũng là người đã lên tiếng ở Phong Hoá, ở tiểu thuyết Người Sơn Nhân, ở Phụ Nữ Tân Văn, người đó là Lưu Trọng Lư. Ông đã viết ba bài bênh vực thơ mới trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Bài " Phong trào thơ mới " (T.T.T.B. số 27, 1-12-1934) đã được toà báo giới thiệu thế này :" " Kỳ trước ông Tản Đà có nói đến bài diễn văn ông Lưu Trọng Lư đọc ở nhà Hội học Qui Nhơn nên nay trích đăng một đoạn để các bạn độc giả cùng xem. "

Như lời giới thiệu, bài " Phong trào thơ mới " này là một bài diễn văn. Có lẽ vì vậy mà ta thấy, nơi bài này, có rất nhiều ý, nhiều đoạn, ông đã nói ở bài gửi cho Phan Khôi đã đăng ở báo Phụ Nữ Tân Văn số 153 tháng Juin 1932 rồi sau lại đăng ở Phong Hoá số 31 Janvier 1933, hay ở bài đăng ở tiểu thuyết Người Sơn Nhân, tháng 5 năm 1933 rồi lại đăng lại ở Phụ Nữ Tân Văn số 216 ngày 14-9-1933. Có điều, ở đoạn trích bài diễn văn này, Lưu Trọng Lư nói mạnh mẽ hơn, so sánh thơ cũ thơ mới để tìm ra nguyên nhân sự khác biệt của đôi bên.

Trước hết, Lưu Trọng Lư nhìn nhận bọn thanh niên đã đưa thơ mới đến chỗ đặt được cơ sở rồi :

" Gần đây trong học văn nước nhà thấy có một cái phong trào mệnh danh là " Thơ mới "... Nó đã thành một sự hiển nhiên, dù muốn dù không, nó cũng cứ ngày một bành trướng. Cũng như mọi cái mới có ở trên đời, phong trào ấy chia dư luận ra hai phái : Phái hoan nghênh và phái phản đối. Tôi không cần nói, các ngài cũng dư hiểu rằng phái hoan nghênh là hạng thanh niên tây học, phái phản đối là các cụ nho học. Hai bên đương sừng sộ nhau, đương giằng co nhau... Thắng bại về đâu không thể đoán trước được, đó là sự bí mật của lịch sử văn học mai sau. Dầu sao, có một điều chắc chắn là những điều kiện ở bên ngoài đã biến thiên thì tâm hồn của người ta cũng thay đổi. "

Sau đó Lưu Trọng Lư phân tích tâm lý thi gia thời xưa để tìm nguyên nhân tại sao các cụ ta ưa lối thơ gò bó chật hẹp nhiều giả dối nữa :

" Những sự thương đau buồn chán, vui mừng, yêu, ghét của chúng ta không còn giống những sự thương đau, buồn chán, vui mừng, yêu, ghét của ông cha ta nữa đó là một sự thực ! Các cụ ta xưa sống trong một cuộc đời giản dị, êm đềm, sinh hoạt dễ dàng, tiếp xúc ít ỏi, cho nên tâm hồn các cụ cũng đơn sơ nghèo nàn, phẳng lặng khô khan như cuộc đời của các cụ, gia dĩ văn hoá Tàu tràn sang, đưa đến cho ta những kỷ luật nghiêm khắc, hẹp hòi của Khổng giáo. Cái chế độ chuyên chế trong chính trị cũng có ảnh hưởng lớn đến thi văn vì các thi sĩ ta xưa đều là những nhà nho mài miệt mười năm đèn sách, là chỉ lăm le có một ngày kia xuất chính. Thi văn của họ là một thi văn quí phái, bệ vệ, đường hoàng, có lề, có lối để thù tạc với nhau, hay để ca tụng những kẻ quyền thế đương thời, những công danh sự nghiệp của người và của mình. Những nhà nho ấy, nếu không may thất thời, lỡ vận, hoặc giả có tiêm nhiễm một ít tư tưởng Phật, Lão mà đâm ra chán đời, thì đã đành họ không thèm ca tụng những cái công danh sự nghiệp ở đời, nhưng khi dưới bóng trăng trong, dốc bầu rượu, họ cũng chỉ ngâm được một câu sáo :" chiếc hoa tàn, bóng mây qua, đời là bể khổ "...

" Thật thế, lòng chán đời của các cụ cũng tầm thường, ít ỏi như cái lòng yêu đời của các cụ ! cái tình cảm đã tầm thường ít ỏi như vậy, thì cần gì có một cái khuôn khổ rộng rãi hơn mềm mại hơn ?

" Một nhà thi sĩ có biệt tài, theo các cụ, là kẻ đã đưa một cách khéo léo những cái tình cảm cũ rích ấy vào những cái niêm luật khó khăn hơn hết.

" Họ không cần tưởng tượng cao xa, có tình cảm thành thực vì cái giá trị bài thơ không phải ở chỗ đó. "

Sau khi chê bai tâm tình các cụ là chật hẹp nhỏ nhen, Lưu Trọng Lư chửi bới, châm biếm các kỹ thuật tiểu xảo mà các cụ nghĩ ra để gói ghém những tình cảm nhỏ nhen của các cụ. Dưới con mắt người đời mới, cái mà xưa kia các cụ cho là tài tình, tế nhị, ngày nay chỉ là ngây ngô, tẩn mẩn :

" Họ có một cái lối đối đáp rất buồn cười là hễ khi tôi thấy " con chó đi ra " thì thế nào tôi cũng phải nghĩ đến " con mèo chạy vô " dầu lúc bấy giờ trước mắt tôi thấy chiếc lá rụng. Nếu tôi không nói thế thì là không hay, không hay vì đối không chỉnh. Ngay người có tài như bà Huyện Thanh Quan cũng vì mắc phải cái bệnh ấy, mà viết ra lắm câu buồn cười. Rất đỗi người có trí xét đoán chắc chắn như Phạm Quỳnh tiên sinh, khi đọc bài " Đèo ngang " mà phải phục là " Tuyệt bút ". " Tuyệt bút " theo Tiên sinh, nghĩa là không thể đặt bút vào chỗ nào nữa, hết nước hay, hết nước đẹp, nhưng thưa các ngài, chỉ có một cái lỗi nhỏ là chẳng thành thực chút nào hết.

" Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia "
Không biết các ngài thì thế nào, chứ tôi thì khi đọc hai câu ấy, thấy cái lòng nhớ nước, thương nhà của bà Huyện mất vẻ tự nhiên và thành thực nhiều lắm. Thật bà đã kiếm được những chữ " sướng " nhưng không phải giúp bà diễn tả cái nỗi lòng tha thiết của mình, mà chỉ là để kết thành hai câu thơ tài tình. Tài tình đây là tài tình về mặt tiểu xảo. Hình như bà đã bỏ cái tình cảm đầu tiên của bà, mà theo dõi những sự đối chọi từng chữ, từng câu, cái vẻ không thật ấy, ta thấy hầu hết trong các bài thơ bát cú xưa nay ".

Theo Lưu Trọng Lư, ngày nay ta chẳng nên trách các cụ, nhưng ngày nay các cụ cũng chẳng nên bắt ta sống theo các cụ, yêu, ghét theo các cụ. Người giữa thế kỷ hai mươi nghĩ, cảm...bao la hơn các cụ nên phải đi tìm cái thể thức rộng rãi hơn để mà diễn tả tâm tình.

Lưu Trọng Lư viết :

" Ngày nay ta đã có cái ý muốn lập một nền văn học hẳn hoi cho nước nhà, thì cố nhiên không còn là cái lúc nói bằng những điển tích mơ hồ, nói những điều mình không cảm, nói mãi những điều cũ mèm sáo hủ. Phàm cái gì mà lập lại hai ba lần là thành " máy móc ", là mất hẳn sự thành thật, sự sống, là vô hồn...Vậy ta phải đi tìm những tình cảm mới mẻ. Mà sự thật, thì ngày nay ta được tiếp xúc với văn hoá âu tây, với những thực trạng mới lạ, không phải tìm, ta cũng đã có những tình cảm mà cha ông chúng ta không có.

" Các cụ ta chỉ thích cái bóng trăng vàng giọi ở trên mặt nước ; ta lại thích cái ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh, vui vẻ ở đầu ngọn tre xanh. Các cụ ta ưa mầu đỏ choét ; ta lại ưa những mầu xanh nhạt.- Một dòng máu chảy ra làm cho các cụ giùng mình.- Chỉ một cái quan tài phất giấy đỏ lững thững đi dưới bóng mặt trời ban trưa cũng có thể làm cho ta rởn óc.- Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà đúng ngọ.- Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi ; ta thì cho là mát mẻ đứng trước một cánh đồng xanh ngắt, cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình, muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình chân thật, cái tình ảo mộng, cái tình ngây thơ, cái tình già giặn, cái tình trong giây phút, cái tình nghìn thu...Các ngài xem đấy, cái tình cảm của người đời bây giờ dồi dào, phiền phức như thế, liệu có khép vào trong những niêm luật khắc khổ được không ? Ông Lanson chẳng đã nói rằng : "Với những cái tâm trạng mới, phải có những văn thể mới " (à des états d'âme nouveaux, des genres nouveaux), thì trong Văn học ta bây giờ mà có cái phong trào " Thơ mới " cũng là lẽ tất nhiên vậy ". (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 27, 1-12-1934).

Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ nhất cho Tản Đà
Sau khi đã tàn nhẫn phũ phàng phần nào với thơ cũ như vậy ở số 27 (1-12-13934), thì đến số 29 (15-12-1934) trong " Bức thư thứ nhất gửi lên Khê Thượng " cho Tản Đà, Lưu Trọng Lư đã đổi hẳn giọng nói. Đây không còn phải là một người muốn tranh hùng, cãi cọ mà là một " tâm hồn muốn mở ra với một tâm hồn ". Thực vậy, Lưu Trọng Lư đã nói với Tản Đà bằng một ngữ ngôn đầy tình yêu, lòng quý mến, niềm kính trọng một người anh đã ấp ủ lòng người em bé bỏng. Đây lời Lưu Trọng Lư thổ lộ với Tản Đà :

" Tản Đà Tiên sinh,

" Lần này là lần đầu tiên, tôi được biên thơ cho tiên sinh, nhưng tôi đã được hân hạnh làm quen với tác giả " Khối tình con " từ ngày tóc còn để trái đào. Đối với tôi, Tiên sinh không phải là một người lạ ; đã có lúc Tiên sinh đi bên cạnh tôi, đưa quyền phép thiêng liêng dẫn tôi vào một thế giới thần tiên, mộng ảo, thế giới của Chiêu Quân, của Dương Quý Phi, của Hằng Nga...của Tô nữ...Đã đành rằng lúc mộng thì phải có lúc tỉnh, khi ra khỏi cuộc phiêu lưu kỳ lạ, lại thấy mình quạnh quẽ lạc loài không hiểu mình, không biết người, ngơ ngác lạ lùng giữa một đám người quen biết, nhưng riêng tôi vẫn lấy điều ấy làm thích thú :

" Ai bảo rằng ta hay mộng tưởng ? "
" Cuộc đời âu cũng giấc chiêm bao ! "
" Ở trong thế giới này, nếu có điều bất ý, thì tôi đây cũng muốn mơ luôn không muốn tỉnh " cũng muốn đi vào thế giới đẹp đẽ hơn do ta tạo lấy...mà ai ngăn ta điều ấy được ?

" Tiên sinh ạ, thì ra chúng ta đã quen nhau tự hồi nào, mà nay mới biên thơ cho nhau, kể cũng đã muộn lắm.

" Vậy trong bức thơ này và những bức thơ sau, Tiên sinh cho phép tôi gác hết những giọng khách sáo thường tình, nói phăng ra những điều tôi thường bâng khuâng trong trí về một vấn đề quan trọng giữa làng thơ. Tôi muốn nói là vấn đề " Thơ mới " mà thiên hạ bàn tán đã nhiều. Một hôm tôi đưa vấn đề ấy ra chất vấn một ông bạn tôi. Bạn tôi bình sinh là người ngay thẳng, minh bạch rất ghét thái độ mập mờ, thế mà đối với vấn đề này cũng phải trả lời một cách lúng túng :" Thơ mới hay thơ cũ thơ nào hay thì tôi thích và ngâm mãi ".

" Câu trả lời lúng túng của ông bạn, sau này tôi xét lại thật chí lý, ví dụ : như tôi đây là một người rất yêu " Thơ mới "  mà trong làng " Thơ mới"  dầu có sản xuất ra được một bậc thiên tài lỗi lạc tôi không vì bậc thiên tài ấy mà rẻ dúng ông Nguyễn Du thân yêu của tôi, ông Nguyễn Du bất diệt, nhà thi sĩ của muôn đời. "

Như vậy, ta thấy Lưu trọng Lư chẳng có ghét, chẳng có chán thơ cũ khi những nhà thơ cũ ấy là Nguyễn Du, khi các vần thơ cũ ấy là " khối tình con " của Tản Đà. Nhưng Lưu trọng Lư đã thỏ thẻ với Tản Đà rằng : thằng em bé bỏng là chàng ấy ngày nay lớn khôn rồi, mái nhà cũ của cha mẹ, tuy nó vẫn yêu, vẫn quí, mà không muốn ở nữa, nó ra đi xây dựng một mái nhà khác để ở riêng với người yêu của nó. Lưu Trọng Lư đã ôn tồn giải thích cho Tản Đà thấy tại sao ông phải làm thơ mới :

" Cuộc đời dầu có thay đổi, bao giờ tôi cũng là người ưa ngâm...ngâm mãi mà không biết chán những bài " Chiêu hồn ", bài" Mả cũ... ". Nhưng tôi không thể giấu Tiên sinh cái cảm tình rất nặng của tôi đối với " Thơ mới "...Tiên sinh cho phép tôi nói ra đây cái cớ tại sao tôi làm " Thơ mới " tôi cần phải sáng tạo ra những điệu mới "...

Sau đó, với tất cả tình trìu mến, say sưa, Lưu Trọng Lư đã trình diễn lại các tâm trạng mà ông trải qua khi làm một bài thơ mới, từ chỗ nghĩ ra đề tài, đến tình tứ gợi lên ; tới việc tìm chữ, chọn vần, lựa điệu :

" Nói đến mình, tôi tưởng là một điều khiếm nhã, nhưng cũng chỉ có mình mình mới hiểu được rõ ràng thôi.

" Tôi còn nhớ một buổi sáng về mùa Xuân ở quê nhà, ngồi bên một cánh song, tôi nhìn bóng mặt trời lấp lánh ngoài vườn hoa, giữa những mầu xanh, đỏ, tím...Những hoa hoàng lan, hoa tử vi, cúc trắng, hồng bạch phơn phớt rung rinh trong bầu xuân khí ấm áp, lòng tôi bỗng thấy nhẩy nhót, vui vẻ, phe phẩy. Tôi bèn đặt mình vào cảnh ngộ một người thiếu nữ, bên người tình để hưởng cho hết diễm phúc, làm ra bài thơ đề là 

" Ngày xuân "

Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau, oanh giục giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng :
" Này! Này! ; bạn ! xuân sang "
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng, lòng vồn vã...

" Nhưng một ý nghĩ tàn ác thoạt len vào trong trí tôi : tôi chợt thấy sự mỏng mảnh của tạo vật...Hoa sẽ tàn...Ngày tháng đi ! lòng người thay đổi - Bao nhiêu cái đẹp đẽ, êm đềm, thân yêu ở trên cõi thế rồi sẽ tan tành, đổ bể vào vực thẳm, của thời gian, lòng tôi bỗng xám tốc lại :
. . . .
Rồi ngày lại ngày
Sắc mầu phai
Lá cành rụng
Ba gian : trống
Xuân đi...
. . . .
" Những vật kia kể còn bền chắc, dai dẻo hơn người. " Vật " còn mong trở lại chứ " Người " thật là một đi ngàn thu mất biệt :
...Xuân kia còn trở lại
Người xưa không thấy tới
" Thể thơ ấy là do tôi tạo ra để cho hợp với sự uyển chuyển ngoắt nghéo của thi tình, thi tứ, rồi tôi gọi nó là " Thơ mới ".

" Muốn tả cái lòng hớn hở, cái vui phe phẩy, khi thấy ánh trời buổi sáng nhởn nhơ với những đóa hoa mơn mởn, ta cần phải dùng một " thi thể " riêng, gọn gàng, văn vắn, vần trắc cùng ngang với vần bằng.

" Cũng như khi tả sự nhanh chóng của thì giờ ta phải đi từ câu dài đến câu vắn hơn để người đọc nhận thấy sự nhanh chóng ấy một cách rõ rệt :

Rồi ngày lại ngày
Sắc mầu phai
Lá cành rụng
Ba gian : trống
Xuân đi.
" Thưa Tiên sinh, theo ngu ý, cái điệu thơ thật có quan hệ đến bài thơ. Sống ở trong cuộc đời mới mẻ, lòng thấy vài cái tình cảm khác khác, mà muốn diễn tả ra cho hết, không thể không tìm đến những cái điệu rộng rãi, mềm mại hơn. Âu đó cũng là một điều bất đắt dĩ, có ai cho là lập dị, cũng đành cam tâm...

" Hôm nay xin tạm biệt Tiên sinh ở chỗ này đã...Trong những thư sau, ta sẽ còn trở lại với " Thơ mới " (T.T.T.B. số 29, 15-12-1934).

Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ hai cho Tản Đà
Trong bức thư sau đề ngày 19-1-1935 (Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 34), Lưu Trọng Lư đã viết cho Tản Đà, phân tích và cực tán bài thơ " Non xanh xanh " của Tản Đà, bài thơ mà Lưu Trọng Lư bảo cũng có thể xếp vào hàng thơ mới.

" Tản Đà Tiên sinh

" Trong bức thư trước, tôi có câu rằng :" Cái điệu thơ thật quan hệ đến ý tứ của bài thơ ". Bức thơ ấy viết xong, thì tờ T.T.T.B. số 26, mang lại một cái chứng thực nữa cho lời tôi đã nói, bài " Non xanh xanh " của Tiên sinh đăng trong số báo ấy, ở mục văn nghệ, ngoài cái giá trị tưởng tượng, nó còn có một cái giá trị ở chỗ khác nữa : ở điệu thơ...

" Dương Quí Phi và Chiêu Quân là hai kẻ đa tình có danh tiếng ở trần gian, lúc về tiên giới ngày nhìn xuống cõi trần hoàn xa thẳm, mù tịt là chốn " tình trường " của mình ngày trước thì lòng thương giạt dào những nỗi nhớ nhung, thương tiếc...Cái tình thật là kỳ lạ, mà cũng thật là giét giắt, não nùng, mênh mông ! chẳng ngại gì. Tiên sinh đã tự ý tạo ra một cái điệu riêng cho thích hợp, từ đầu đến cuối bài thơ. Tiên sinh gieo toàn một vần bằng ngõ hầu diễn cho hết cái " giéo giắt ", cái não nùng, cái " mênh mông " của khối tình kỳ lạ ấy !... Trong âm hưởng của ta, những tiếng " bằng " thật là dồi dào, uyển chuyển, " huyền diệu " có thể diễn tả được hết cái buồn của người ta, cái buồn muôn hình vạn trạng...

" Giả thử Tiên sinh đem phả cái tình của hai bà tiên vào một điệu thơ rất bó buộc, toàn vần trắc chẳng hạn, thì cái tình ấy sẽ tiêu tan đi mất hoặc trở nên buồn cười. "

Sau khi cực tán thơ của Tản Đà, Lưu Trọng Lư đồng ý với Tản Đà rằng có rất nhiều bài thơ mới rất dở, cho nên mặc dầu sốt sắng bênh thơ mới Lưu Trọng Lư cũng chẳng muốn bênh vực những thứ thơ đó.

" Trong bài " Phong trào thơ mới " Tiên sinh có câu : "... cũng có xem đến một vài bài thơ mới đăng trên các báo chí nhưng thực chưa lấy làm xứng ý " mà tôi đây cũng lấy làm bất mãn lắm...Tôi là một người yêu " thơ mới " - xin thú thật với Tiên sinh như vậy. Nhưng tôi cứ thành thực tố cáo với làng thơ rằng : phần nhiều những nhà tân thi nhân hình như không hiểu cái âm luật huyền bí, cái cách tiết tấu tự nhiên của tiếng ta...

" Đã đành có khi cần phải tạo ra những điệu mới nhưng người nào nghĩ rằng muốn tạo ra thế nào thì tạo, thật là lầm to...

Cái " điệu " phải hợp với thi tình, thi tứ, mà cũng cần phải hợp với những luật phép nhất định của thanh âm. Trên các báo chí ở đây tôi thấy nhiều bài " thơ mới " chữ dùng rất sôi nổi vần điệu khó khăn, lại có những câu dài dằng dặc đọc lên nghe lổng chổng nghênh nghênh thế nào !

" Đối với người thường, một câu thơ có thể dài mấy cũng được, nhưng đối với các lỗ tai rất sành sỏi của thi nhân sự ấy rất có hạn định...Trong thể ca trù cũng có lắm câu rất dài, những câu dài ấy là gồm nhiều câu ngắn nương tựa vào nhau, câu thơ mới dễ ngâm...

" Hãy bình tĩnh mà xét, ý tứ của những bài " Thơ mới " ấy không phải là không hay, nhưng ý tứ hay mà làm gì, nếu không biết diễn tả ra được một cách dễ dàng, trơn tru, êm ái...Cái " thi tứ " nào luyện bằng một âm hưởng du dương, mới hòng đi tới lòng ta được, bằng không nó sẽ đi lên trí ta và nó chỉ làm cho ta suy nghĩ mà không làm cho ta cảm xúc ".

Tuy có đồng ý với Tản Đà mà chê một ít bài thơ mới, Lưu Trọng Lư cũng tha thiết yêu cầu Tản Đà không nên vì những sự sơ xuất đó mà hờ hững ác cảm với thơ mới :

" Dầu sao cũng không nên vì đôi điểm lầm lỗi của nhà Tân thi nhân mà hờ hững với " phong trào thơ mới "... Hình thức của thơ phải mới, mới luôn, cho hợp với tâm hồn của ta, cái tâm hồn phiền phức của ta, trong khi tiếp xúc với hoàn cảnh mới, lại càng thêm phiền phức...

" Tiên sinh nghĩ sao ? ".

Hoài Thanh ca ngợi thơ mới trên T.T.T.B.
Đồng thời với Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh cũng dùng Tiểu Thuyết Thứ Bảy (số 31, 29-12-1934) để bàn về " Thơ mới ".

Theo Hoài Thanh, xét cho cùng ra, không có thơ mới cũng như không có thơ cũ : chỉ có thơ mà thôi, tức là thơ làm ngày xưa và thơ làm ngày nay. Cái hay, cái kiệt tác không lệ thuộc ở thời gian mà ở thiên tài của thi nhân :

" Trước hết một câu hỏi, thơ mới có hay không có ?

" Nói một cách tuyệt đối văn thơ không có xưa không có nay, vì vô luận xưa nay, hễ ghép chữ thành câu, có ý tứ, có âm điệu, gợi được mỹ cảm cho người nghe, đều gọi là thơ cả.

" Ta đọc những câu :

Dưới dòng nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha...
. . . .
Cảnh ấy tình này thôi hết muốn
Trời kia đất nọ nỡ cho đành
Hay những câu của Thế Lữ :
Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt
Mây bay, gió quyến mây bay...
Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may
" Mấy đoạn văn này đều gợi được thi cảm trong lòng ta, ta cần gì phải phân biệt xưa nay ".

Tuy nhiên nếu bình tâm mà nhận định ta vẫn thấy có một cái gì khác biệt giữa hai thể thơ mà người ta gọi là cũ, là mới : " Tuy vậy cái mục đích của nhà làm thơ, cái công dụng của thơ không khác, mà cách xếp đặt có khác, có bài thơ làm theo lối nhất định ngày xưa, có bài lại không theo niêm luật nào, những bài thơ không theo niêm luật này, quả như ông Tản Đà đã nói, không phải đợi đến vài năm gần đây mới có, song chắc ông Tản Đà cũng phải nhận rằng chỉ trong khoảng vài năm gần đây, lối thơ ấy mới thành phong trào, có địa vị hẳn hoi trên văn đàn nước nhà, phong trào thơ mới ngày nay đã thành sự thực hiển nhiên, " thơ mới " có vậy.

" Thơ mới không những có, mà lại có những tay thi sĩ có tài sản xuất nhiều tác phẩm rất giá trị nữa ".

Sau đó, Hoài Thanh trích của Thế Lữ mà Hoài Thanh gọi là những vần thơ kiệt tác :

" Những câu thơ của Thế Lữ tôi dẫn trên kia hay những câu sau này của Lưu Trọng Lư có đăng trong một kỳ Tiểu Thuyết Thứ Bảy vừa rồi. " Nếu đem so sánh với các áng văn kiệt tác xưa nay của nước ta, tưởng không có gì phải hổ thẹn.

" Ban đêm đi dạo, thoáng nghe mùi thơm của một đoá hoa mà tưởng tượng :

...Kiếp trước hoa là thiếu nữ
Sống một kiếp, vạn người thương
Chết vô duyên vùi bên đường.
. . . . .
Một đám đất vàng
Dãi nắng dầm sương...
Trên đống sương lạnh
Thổi lên một nhánh
Lúc canh trường
Thoảng mùi hương...
" Mới trong thời gian rất ngắn, mà đã có những kết quả tốt đẹp như thế, thì thơ mới còn nhiều hy vọng về sau. "

Cũng giống như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh nhìn nhận toàn thể cơ cấu xã hội đang bị cuốn phăng theo trào lưu mới : tất cả cuộc đời dân tộc ta đang đổi mới. Tâm tình ta, tuy có thay đổi chậm hơn cả, nhưng cái lúc nó thay đổi cũng đã đến rồi :

" Nước ta trong mấy ngàn năm sống một cuộc đời chất phác, bình dị, tư tưởng, tình cảm, người ta cũng vì đó mà bình dị, cứ phô diễn theo những qui tắc đời trước cũng đủ.

" Nhất đán, phải tiếp xúc với văn minh Âu Tây, bao nhiêu nền tảng kiên cố về lễ nghi, về tôn giáo, về xã hội, về chính trị, đều bị một phen rung rinh, điên đảo, trước mắt, bỗng bầy ra những cảnh rực rỡ nguy nga, cũng như cảnh thảm mục, thương tâm chưa bao giờ thấy. Lúc đầu còn ngơ ngác chưa hiểu ra thế nào dần dần cũng uốn mình theo cuộc sinh hoạt mới để mưu lấy sự sinh tồn, ăn bận theo lối Tây, nhà ở xây theo kiểu Tây, cũng dùng ô tô cũng đi xe lửa, cũng mở thương điếm, công trường, đó là cuộc cải cách về vật chất.

" Tiếp đến cuộc cải cách về tư tưởng, người mình cũng có kỹ sư, cũng có bác sĩ, cũng nghiên cứu khoa học, triết học thái tây ".

" Song cuộc cải cách chỉ ở trong vòng vật chất và tư tưởng thì chưa được sâu xa, hoàn toàn ; còn phải có một cuộc cải cách về tình cảm nữa. Phong trào thơ mới là tiêu biểu cho cuộc cải cách này vậy, cũng bởi tình cảm là phần cốt yếu trong tâm tính người ta, khó thay đổi hơn lý trí cùng mọi tập quán sinh hoạt hàng ngày, nên mãi hơn nửa thế kỷ tiếp xúc với văn hoá Âu Tây mới thấy có sự thay đổi rõ rệt, sự thay đổi này không phải chỉ riêng vài người mà chung cho rất nhiều người. Các thi sĩ trong làng thơ mới đã được hoan nghênh một cách đặc biệt cũng vì hợp với lòng khát vọng của phần đông.

" Người ta thường nói " Nguồn thi cảm ", mà quả thế, thi cảm là một dòng nước vô hình chảy ngầm ngầm từ đời này qua đời khác trong tâm hồn dân tộc. Lúc thường dòng sông phẳng lặng đi theo lối có sẵn từ ngàn xưa, gặp lúc giông tố, năm bẩy nguồn nhóm lại, sức nước quá mạnh, tung bờ, vỡ đê, chảy tràn lan khắp đồng ruộng. Nhưng tràn lan một lúc rồi cũng phải tìm lối đi, nhân đó sẽ có thêm nhiều dòng sông mới, dần dần lại cùng phẳng lặng chảy hoài như xưa cho đến ngày có một cơn giông tố khác.

" Tôi muốn dòng sông kia như khuôn phép mà làng thơ mới sẽ tự tạo ra và buộc mình vào trong vì một lối thơ mới tồn tại không thể có qui tắc nhất định. Người có thiên tài thì tự nhiên sẽ lựa được những âm điệu có thể làm rung động lòng người nhưng thiên tài hiếm, lẽ tất nhiên làm cho không phải ai cũng có thiên tài, một người tìm ra được âm điệu hay, năm ngàn người cùng làm theo âm điệu ấy đã thành ra qui tắc rồi đó.

" Vậy bây giờ thơ mới đã có qui tắc gì chưa ? Hiển nhiên là chưa có. Không theo phép tắc khuôn khổ xưa thì người ta gọi là mới, hai chữ thơ mới hiện nay chỉ có thể định nghĩa một cách tiêu cực như vậy, mà thôi, lối thơ sau này, câu thơ sẽ dài hay ngắn thể nào, điệu thơ sẽ thể nào, chưa ai biết được, song có điều chắc chắn, là thơ thì phải có vần. Những bài Nguyễn Du, Nietzche của Thái Can trong quyển Những Nét Đan Thanh, ý tứ dồi dào đều là những bài văn xuôi rất hay, nhưng không thể xem là thơ được, thơ phải có vần, phải chú trọng về âm điệu, phải mượn thêm âm điệu trao mối cảm cho người ta nhiều hơn là mượn ý tứ ly kỳ hay sâu sắc ".

Sau cùng, cũng giống như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh dầu có trách một ít sơ suốt của làng thơ mới vẫn bênh vực thơ mới, vẫn chịu rằng thơ mới đã có những thiên tài xứng đáng :

" Các ông trong làng thơ cũ thường hay có ác cảm với thơ mới đó là lẽ tất nhiên. Họ lại còn nói xấu nữa " mấy anh trẻ con không có nho học, không biết niêm luật thơ là thế nào cũng muốn kiếm một chỗ ngồi giữa đình làng thơ, nên mới phải bày ra lối thơ mới. " Điều này quả là một điều vu oan. Tôi thấy phần nhiều các ông làm thơ mới đều có biết làm thơ cũ, chỉ vì qui tắc thơ cũ quá chật hẹp không đủ phô diễn những mối cảm xúc, những tính tình mới mẻ phức tạp của họ nên họ phải đi tìm những phép tắc rộng rãi hơn đó thôi. Một đôi khi vui vui, họ cũng làm thử lối thơ cũ thì thơ họ hay lắm. Những bài " Học trò đi học đã về " (1), " Hoa ái tình " (2), của Thái Can ; " Túp lều cỏ " " Nhớ lại ngày " (3) của Lưu Trọng Lư ;bài " Năm qua " (4) của Leiba, bài " Than thở của nàng Mỹ Thuận " (5) cùng nhiều bài khác của Thế Lữ đều là những bài thơ có giá trị, cùng với mấy bài này ta có thể kể luôn mấy bài thơ của Đông Hồ : " Bốn cái hôn " (6), " Cô gái xuân ", " Cái hôn lần đầu " (7) tuy ông Đông Hồ không tự nhận mình là một nhà thơ mới.

" Có một điều, nguồn thi cảm mới đầu có đi theo những phép tắc xưa vẫn giữ tính cách riêng của nó ; mà những bài thơ tôi vừa kể trên này nếu gọi là thơ mới có lẽ đúng hơn là thơ cũ. " (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 31, 29-12-1934).

Văn Thức trên báo Loa ca ngợi thơ mới
Sau Tiểu Thuyết Thứ Bảy, đến báo Loa cũng bênh vực, ca ngợi thơ mới, được gọi bằng một tên đẹp " Nàng thơ ". Trong bài" Mộng thơ " (Loa số 79, 22-8-1935), B.C. Văn Thức đã nhân hoá thơ thành một thiếu nữ trẻ, đẹp, duyên dáng, say sưa, yêu đương, si tình. Người thiếu nữ mới này bạo dạn, tự do chứ không e lệ, kín đáo, ít lời như người thiếu nữ xưa.

Cũng trên Loa số 79, 22-8-1935, nơi mục Văn Học Việt Nam hiện đại, Trương Tửu đã đem so sánh tài nghệ của ba nhà văn tả cảnh Thế Lữ, Lan Khai, Lưu Trọng Lư với các đại văn hào thời xưa như Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương rồi ông ghi nhận rằng nghệ thuật của ba nhà văn mới hơn hẳn các nhà văn xưa.

Trương Tửu đã phân tích nghệ thuật tả cảnh xưa kia của bài Đèo ngang của Hồ Xuân Hương. Bài thơ tuy có tài tình, nhưng không đặc sắc, không bao la như thơ mới, tức thơ bắt chước của Pháp :

" Thứ tả cảnh này vẫn có trong thơ Việt Nam từ ngày thành lập nền văn học. Những truyện có giá trị như Thuý Kiều, Hoa Tiên, những ngâm khúc tuyệt bút như Chinh Phụ, Cung Oán và phần nhiều những bài thơ hay của Hồ Xuân Hương, Thanh Quan nữ sĩ, của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ...đều là những bức tranh đậm đà, lý thú của mầu sắc thiên nhiên.

" Nhưng ta phải nhận rằng lối tả cảnh hồi xưa, thiếu ba tính cách cần yếu :

1 - Rõ ràng.
2 - Đầy đủ.
3 - Linh hoạt.
" Muốn chứng thực điều nhận xét của tôi vừa viết, tôi đơn cử ra đây một bài thơ tả cảnh một nhà văn, theo tôi thấy, ưa thích tả cảnh hơn tất cả những người khác, tôi muốn nói bài Đèo ngang của Hồ Xuân Hương nữ sĩ :
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạo cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ toét bùm tum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió dật
Đầm đìa lá liễu hạt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
" Theo quan niệm văn học cũ về thơ, thì bài này tuyệt mỹ. Nhưng đã có ý kiến mới về lối tả cảnh thì nó không còn một mẩy giá trị nghệ thuật nào.

" Dùng những danh từ : đèo, cửa, nóc, đá, rêu, thông, liễu, gió, sương, những phẩm từ : cheo leo, đỏ toét, xanh rì...không phải là tả, chỉ là dán trên mỗi vật một mầu giấy kê tính chất (ce n'est pas prendre c'est poser des étiquettes).

"Ừ, đèo cheo leo, nhưng cheo leo ra làm sao ? Cửa đỏ toét nhưng đỏ giống mầu gì ? Phải tả thế nào mà người xem văn trông rõ cảnh sắc ấy như ở trước mắt, không cần dùng đến những chữ cheo leo, đỏ toét...mà ai cũng có cảm giác tương đương...

" Tả cảnh không được nói trơn tính chất, mầu sắc của vật chỉ cần bày ra tất cả những điều kiện thành lập của tính chất, mầu sắc ấy.

" Một cái nhận xét này có thể ứng dụng vào cả bài thơ.

" Lấy một vài nét đơn sơ để thu tóm đại thể, một cảnh sắc, chủ ý ký thác vào thiên nhiên, một cảm tình tổng quát, đó là nguyên lý (le principe) của lối văn tả cảnh ngày xưa ".

Sau khi đã giới thiệu và lấy thí dụ để mô tả nghệ thuật một phần nào giả tạo, tiểu xảo của thơ cũ, Trương Tửu đã phân tích và trình bầy cái nghệ thuật uyển chuyển, bao la của thi ca Pháp mà thi nhân Việt Nam cần bắt chước :

" Tôi nói : hồi xưa, vì từ khi chịu ảnh hưởng của Pháp văn, nó đã thay đổi nhiều, nghĩa là tiến bộ nhiều.

" Dưới ngòi bút các nhà văn Pháp, cảnh vật trở thành rõ rệt, linh hoạt. Họ tả cặn kẽ, tỉ mỉ mà không bề bộn. Mỗi nét vẽ họ đặt trên tờ giấy là một cảm giác in vào hồn người đọc.

" Muốn có thí dụ thì phải vài mươi pho sách mới chép hết đuợc.

" Cũng một cảnh đăng sơn mà trong bài thơ của bà Huyện Thanh Quan ta chỉ thấy hình bóng lờ mờ : cỏ cây, vách đá, tiều phu, chợ...Với thi sĩ Pháp Léonce Dépont ta được nhìn rõ những vực sâu, hang thẳm những " đầu người đội mũ đá, mọc sừng thông, màn sương như tấm lụa đào che phủ cả bầu trời trái đất. Những đàn bò vừa đi vừa kêu dưới ánh xiên khoai của tà dương ". Ta còn được nghe tiếng chuông, tiếng suối làm rung động cả thinh không tiếng nhạc rung vang khắp sườn núi trơ vơ...( !)

" Nữ sĩ của chúng ta, trước cảnh thần tiên của Đèo ngang, chỉ có cảm tưởng nhớ quê hương, trơ trọi. Léonce Dépont làm ta " cao hứng, say mê, khoát đạt, thấy mình trở lại cái thời kỳ ấu trĩ mang một tâm hồn trong sạch, thơm tho ". Thi sĩ truyền cho ta cảm giác của " một con ong nở ra giữa mùa mật, tha hồ mà hút những bông hoa ảo tưởng... "

" Một đằng tả sơ sài, một đằng tả kỹ lưỡng.

" Một đằng cảm nông nổi, một đằng cảm sâu xa.

" Đó là hai cái sai biệt của hai lối văn tả cảnh Pháp Nam. So sánh hai văn chương, tôi thấy rằng dù tả cảnh hay tả tình, nhà văn Pháp cũng chuộng sự phân tách tinh vi. Còn ta chỉ sở trường sự tổng hợp xảo thủ.

" Như vậy, là vì hai văn hoá khác nhau.

" Một bên tôn sùng đạo lý, xã hội nên khinh bỏ và toả chiết cái sinh hoạt của thân, tâm (Nam).

" Một bên phụng sự nghệ thuật, cá nhân nên quý trọng và hỗ trợ sự phát triển tự do của giác quan, tình cảm (Pháp).

" Ngày nay muốn gây một văn học xứng đáng cho dân tộc, chúng ta phải phá đổ cái giáo lý khô khan tổ truyền để vun trồng chủ nghĩa cá nhân cho đâm bông nẩy quả ".

Lê Tràng Kiều tính sổ thơ mới
Nhưng người đã viết nhiều nhất về thơ mới trên Hànội báo là Lê Tràng Kiều. Trong hơn ba tháng trời, ông viết một loạt 13 bài bàn về thơ mới hay bênh vực ca ngợi các nhà thơ mới.

Ngày mồng 8 tháng 4 năm 1936, Hànội báo 14, Lê Tràng Kiều viết bài " Thơ mới " để kiểm điểm về thành tích của thơ mới qua ba năm sóng gió bão táp. Lê Tràng Kiều đã ví ba năm thi ca của thế hệ 1932-1936 như một thế kỷ :" Cách đây hơn ba năm, trong Phong Hoá số mùa xuân (1933), ông Lưu Trọng Lư rụt rè, giấu mình dưới một cái mật hiệu, lần đầu tiên gieo một cách mạnh mẽ hạt giống thơ mới, vào đất Bắc...

. . . . . . . . . . .

" Ba năm qua...

" Cái lối " thơ mới " mà ông Lưu bấy giờ còn cho là một sự bí mật của lịch sử văn học, nay đã thành sự thật ai cũng công nhận, hơn thế nữa, một sự thành công vẻ vang.

. . . . . . . . . . .

" Ba năm qua, văn học ta đã bước được một bước dài. Một sự may mắn không ngờ ! chỉ trong vòng ba năm mà lần lượt đua nhau xuất hiện ra không biết bao nhiêu tác phẩm có giá trị, mà trong cái dĩ vãng rất bằng phẳng mấy ngàn năm chỉ lơ thơ một vài cái.

" Từ bao giờ đến bây giờ, nguời ta đã có mấy lần một tâm hồn

- Hùng tráng như Huy Thông
- Dồi dào như Thế Lữ
- Huyền diệu như Thái Can
- Âm thầm như Đông Hồ 
- Trong sáng như Nhược Pháp 
- Mơ màng như Lu Ba 
- Buồn bã như Nguyễn Vỹ
" Và một tâm hồn đầy âm nhạc, đầy mộng ảnh như Lưu Trọng Lư.
" Ba năm qua
" Như một thế kỷ đã qua !
" Bây giờ tôi tưởng đã đến lúc nên xoá bỏ hai chữ " Thơ mới " đi thôi.

" Hai chữ " Thơ mới " là biểu hiệu một cuộc cách mạng đương bồng bột.

" Cuộc cách mạng về thi ca ấy, ngày nay đã yên lặng như mặt nước hồ thu.

" Thơ mới không còn lạ lùng nữa.

" Thơ mới đã thuần thục rồi !

" Thơ mới đã trở vào khuôn phép rồi !

" Thơ mới đã quen với chúng ta rồi, và có lẽ " quen thân " nữa !

" Thơ mới không còn cái gì bỡ ngỡ và rụt rè lúc ban đầu... "

Hình như Lê Tràng Kiều đã hơi nói " phét " thì phải khi viết, vào khoảng tháng tư năm 1936 " Cuộc cách mạng về thi ca ấy, ngày nay đã yên lặng như mặt nước hồ thu ". Là vì chính bài " Thơ mới " mà Lê Tràng Kiều viết tựa, cho cuốn " Những áng thơ hay ",bài tựa mà ta vừa phân tích và trích mấy đoạn ở trên đây khiến cho Thái Phỉ nổi nóng, lên tiếng công kích Lê Tràng Kiều trên báo Tin Văn. Tài liệu báo Tin Văn tôi không có. Nhưng biết được sơ qua ý của Thái Phỉ qua bài trả lời Thái Phỉ của Lê Tràng Kiều (Hànội báo số 17, 29-4-1936). Lê Tràng Kiều phải công nhận rằng Thái Phỉ " phát biểu toàn là những ý kiến ngờ vực đối với phong trào thơ mới, đối với các nhà thơ mới mà thôi ". Như vậy thì năm 1936 chưa hẳn là cuộc cách mạng về thơ mới đã chìm xuống.

Chẳng những có những cá nhân như ông Thái Phỉ còn chống thơ mới, mà Lê Tràng Kiều cũng còn phải nhận rằng còn có cả những cơ quan ngôn luận ở Bắc cũng như ở Nam hiện đang chống thơ mới.

" Không hẹn mà nên tờ Văn Học tuần san ở trong Nam và tờ Tin Văn ngoài Bắc, đối với thơ mới cùng đồng một ý kiến với nhau, mỗi khi nhắc đến " Thơ mới " là họ bỉu môi với nhau một cách khinh khỉnh.

" Tôi có thể nói một cách cả quyết rằng : một cơ quan văn học mà không nhìn nhận giá trị của " Thơ mới " là một cơ quan văn học không xứng đáng đại biểu cho nền văn học một nước ! vì không nhìn nhận giá trị của " Thơ mới "- Tôi cần phải nói cả quyết thêm điều này nữa - tức là không hiểu gì về thơ mới cả.

" Không trách, những tờ báo văn học mà tôi vừa nói đó, không được các bạn thanh niên hoan nghênh một cách xứng đáng.

" Mỗi lần tôi đọc những bài công kích " thơ mới " ở trong Văn Học tuần san, hay ở Tin Văn tôi cứ bâng khuâng nghĩ ngợi mãi, tự hỏi một trăm lần " có thể như thế được ư ? bọn họ có thể tầm thường đến thế ư ? hoặc giả là lúc mới lọt lòng ra họ mang mối không đội trời chung với thơ mới rồi (Hànội báo số 18, 6-5-36).

Nhưng Lê Tràng Kiều cho rằng sở dĩ họ công kích thơ mới chẳng qua vì thiên kiến mà thôi. Cho nên ý ông là thuyết phục, đánh đổ thiên kiến đi, mà đánh đổ bằng lý luận cãi cọ ít hơn là bằng tình cảm, bằng sự phân tích, giới thiệu các bài thơ mới có giá trị.

" Rồi tôi biết họ công kích " thơ mới " là vì những thành kiến đã che mắt họ. Nghĩ vậy, hôm nay tôi mới trả lời cho họ bài này, có cái ý như làm cái công việc của một viên y sĩ đi chữa mắt người ta vậy. Ï

" Làm sao họ lại cần hỏi một câu lẩn thẩn rằng :" Thơ mới có khuôn phép không, và khuôn phép thơ mới là thể nào ? Nhưng câu hỏi của họ tôi sẽ lần lượt trả lời sau, bây giờ tôi tưởng cần nói ngay một điều :

" Nếu họ thật quả là có nhận thấy giá trị của nhiều bài thơ mới, thì một cái kết quả tốt đẹp như thế, tất nhiên đã chứng một cách hùng hồn, một công phu dồi dào, một phương tiện rạch ròi, và thơ mới có một cái lẽ sống rất chính đáng vậy ".

" Bằng như trái lại, thì cái câu hỏi của báo Tin Văn đã nêu lên đó, tôi cho là thừa.

" Một ông bạn của tôi thường nói :" Muốn cho người ta nhận cái giá trị của thơ mới không nên biện luận " con cà con kê " với người ta làm gì vô ích, chỉ nên bảo người ta ngồi im như ngồi thuyền đinh và đến đọc vào tai người ta, mấy bài thơ mà mình cho là có giá trị, rồi bảo người ta, một là gật đầu, hai là lắc đầu, người ta gật đầu thì cần phải nói thêm nữa, nếu người ta lắc đầu, thì mình quay lưng đi mà thôi. Thơ là một " giống thiêng liêng " người ta chỉ đọc trong giờ thiêng liêng, khi tâm trí trong trẻo và bằng phẳng như một tấm gương. Nói chuyện thơ mà chỉ hòng cãi lộn nhau thì còn bao giờ hiểu thơ được ! "

" Tôi cũng công nhận như ông bạn tôi rằng :" Không có cái lý luận nào hùng hồn để bênh vực thơ mới cho bằng chính lại là những bài thơ mới...Nhưng với người không kịp hiểu, ta chớ vội quay lưng đi, ta phải làm cho tất cả mọi người cả những người thù ghét của thơ mới, cũng phải cúi đầu trước thơ mới và ăn năn vì sự ruồng rẫy trước kia của mình vậy. Một nhà thơ như Thế Lữ chẳng hạn, không phải là của anh, của tôi, của một người nào, mà là con công của một nước, của hiện tại, của hậu thế.

" Những bài thơ như bài " Tiếng thu " " Bao la sầu " " Một chiều thu " không phải là di sản của một gia đình nào, của một phái nào, của một thời đại nào, nó đáng cho mọi người trong nước ngâm nga, đáng dịch ra tiếng ngoại quốc cho người ta thấy rằng : cái dân tộc của ta, không phải là không còn có người hiểu cái hay cái đẹp ở đời.

" Lại những nhà thi sĩ có tâm hồn kỳ dị như Thái Can, như Huy Thông, như Nguyễn Vỹ không phải giống thường có ở nước ta.

" Mặc ai biểu môi, mặc ai khinh khỉnh chúng ta cũng có quyền kêu to lên rằng :" chúng ta ngày nay đã có những nhà thi sĩ xứng đáng vậy " (Hànội báo số 18).

Thái Phỉ có trách Lê Tràng Kiều ở báo Tin Văn rằng ông mâu thuẩn thì ta cũng chẳng lấy làm lạ. Ông đã từng cho rằng thơ mới đã làm một cuộc cách mạng sôi nổi mà nay đã lặng hẳn để rồi ông lại nhận thấy nó chưa có lặng tí nào. Đến nay, ngày 13 tháng 5 năm 1936, Hànội báo số 19, ông lại cho như từ khi có thơ mới chưa ai lên tiếng bênh vực thơ cũ, công kích thơ mới. Tưởng như Thái Phỉ là người đầu tiên thì quả thật là lầm chứ đừng nói là mâu thuẫn.

" Cách đây đã 6, 7 năm, lần đầu tiên ở Trung Đông Pháp thời báo, ông Phan Khôi là một nhà nho (thoát ly) quay giáo đánh lại đạo nho, viết nhiều bài để mạt sát đạo nho, hình như cốt khêu tức mấy nhà nho chơi, thế mà rồi, đáng phục thay, các nhà nho vẫn hững hờ như không, không có một ai chạy ra tiếp chiến, đến nỗi bên nghịch đánh mãi ở chỗ không, chán phải kêu : " tình đời bạc bẽo thay ! "

Ý ông Phan bảo rằng : nhà nho hèn nhát đến nỗi một cái đạo đã nuôi sống mình mấy nghìn năm bây giờ bị nạn, cũng không ai ra cứu chữa !

" Kể thì tình đời bạc bẽo mà người đời hèn nhát thật ! Nói như trong một vấn đề " thơ mới thơ cũ đây " ta cũng thế thấy cái tâm lý ấy một cách rõ rệt. Thử hỏi từ khi có phong trào " thơ mới " ở Bắc kỳ này, trong phái thơ cũ, bị người ta đưa ra công kích.

Có ai dám đường hoàng viết lên báo, lên sách một bài cỏn con để tự bào chữa cho mình ; có ai dám đường hoàng bài trừ thơ mới mà theo các ông, là một cái dịch đáng sợ. Các ông chỉ được cái tài nói sau lưng người ta ! Mỗi khi các ông tình cờ đọc được một bài thơ mới chẳng hạn, thì các ông nhăn mặt, bưng mũi, làm đủ thứ khó chịu và bỉu môi bảo một cách khinh khỉnh :" Thơ mới " cóc rác " gì thế này ! lủng củng lủng ca.

" Đến đấy mới thấy một người : người ấy là ông Thái Phỉ, đục vào trong bụng các nhà thơ cũ, đưa những điều uất ức, âm thầm nén ở trong bụng họ, và đường hoàng viết lớn ra ở trong cơ quan văn học mà ông chủ trương.

" Ở đất này, giống thơ mới đã nẩy nở hơn ba năm rồi mà nay mới có một người, ở trong óc người ấy mới nẩy nở cái ý : phá cái giống ấy đi, vì là một giống xấu, kể thì cũng hơi muộn một chút ! Nhưng ông Thái Phỉ ơi ! ông hãy đợi cái cây ấy cao hơn một tí nữa, rồi hãy chặt, nếu như ông đủ sức chặt được. Cái công ông đối với nền văn học nước nhà mới lại càng to lớn vậy.

" Ông Thái Phỉ chỉ là tiếng của cả một đội tàn quân, liểng xiểng, cố thu toàn lực để đánh một trận cuối cùng " (Hànội báo số 19).

Chiến thuật của Lê Tràng Kiều từ đây để đối phó với " đội tàn quân, liểng xiểng, cố thu toàn lực để đánh trận cuối cùng " này là đưa các tay nghệ sĩ tài danh ra chiến trường.

" Xưa nay ta chỉ buồn vỉ đánh mãi ở chỗ trống, nay mới biết mình cũng có kẻ địch đáng sơ, thật là dịp tốt để thử cái oai lực của ngọn kiếm " thơ mới " của mình vậy.

" Nhưng tôi cần phải phân vua với các bạn một điều rằng với phái thơ cũ không cần đến người như tôi ra tiếp chiến : đã có những ngọn kiếm hùng mạnh thay tôi, ra mà chống cự với địch quân. Một người như tôi chỉ đáng ở nhà " khua chiêng, đánh trống " để ẩy người khác ra đánh thay mình mà thôi.

" Tôi sẽ ẩy ra mặt trận, lần lượt : ông Thái Can, ông Nguyễn Vỹ, ông Nguyễn Nhược Pháp, ông Thế Lữ, ông Huy Thông, ông Lưu Trọng Lư.

" Nếu trên mặt trận văn học sau này, họ cắm lá cờ Thơ mới thổi khúc khải hoàn : thì công ấy hoàn toàn công của ông vậy.

" Nhà thi sĩ tuy là trẻ tuổi mặc lòng nhưng mà...ông Thái Phỉ chắc cũng biết câu bất tuyệt của nhà kịch sĩ Corneille vậy...

" Họ trẻ tuổi nhưng mà...có múa gươm, mới biết tài nhau " (H.B. số 19, 13-5-1936).

Lê Tràng Kiều ca ngợi Thái Can
Lê Tràng Kiều hứa là sẽ ẩy ra mặt trận, lần lượt : Thái Can (H.B. số 20, 20-5-36), Nhược Pháp (H.B. số 21, 27-5-36), Đông Hồ (H.B. số 22, 3-6-36), Nguyễn Vỹ (H.B. số 23, 10-6-36), Thế Lữ (H.B. số 24, 17-6-36), Vũ Đình Liên (H.B. số 26, 1-7-36), Lưu Trọng Lư (H.B. số 30, 29-7-36).

Thế là đến ngày 20-5-36 (H.B. số 20), Lê Tràng Kiều tuyên bố " ẩy " Thái Can ra mặt trận. Lý do khiến ông " ẩy " Thái Can ra trước tiên vì, dù có chịu ảnh hưởng Tây, Thái Can vẫn gần gũi thơ cũ, gần gũi Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan. Nếu đem so với Tàu thì ông gần Lý Thái Bạch, còn nếu đem so sánh với Tây, thì ông giông giống Rignier hay Hérédia...

" Muốn cho cuộc bút chiến khỏi đột ngột, kỳ này tôi muốn " ẩy " Thái Can ra trước mặt trận, vì nếu trong các thi sĩ mới, có một thi sĩ gần Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan hơn hết thi sĩ là Thái Can.

" Thái Can là một người trẻ tuổi về phái Tây học nhưng - điều này mới quí - trong thơ văn của ông không chịu ảnh hưởng Tây học mấy, hình như một đôi bài, một đôi câu ta cũng thấy có phảng phất chút ít Régnier, hay là Hérédia còn phần nhiều ở đâu, trong lúc nào, ta cũng thấy họ Thái là một đứa con cưng của Lý Thái Bạch, Bạch Cư Dị, lạc loài vào thời đại này vậy.

" Thật thế, nếu thi văn của đời Đường, cái đời có một không hai ở trong lịch sử Trung Hoa, còn có dấu vết gì ở xứ này, ở thời đại này, cái dấu vết ấy không thể tìm trong tâm hồn của một nhà nho nào khác mà chính là ở trong tâm hồn của Thái Can vậy.

" Một ông bạn tôi đọc thơ Thái Can thường bảo rằng :" Thơ họ Thái " Tầu " quá, chữ " Tầu " đây không có cái nghĩa của người Tây thường hiểu, chữ " Tầu " đây nói bằng một giọng thành kính, xuất tự một tấm lòng sùng bái những cái tinh hoa, cái đẹp đẽ của nước Tầu cổ.

" Một hôm tôi hỏi họ Thái :" Có nhiều người liệt anh vào phái thơ cổ, anh có cho vậy là đúng không ? " Họ Thái cười và đáp :" Ấy là họ chứ hiểu nghĩa chữ mới đó mà thôi ".

" Ý họ Thái cho rằng : những bài thơ của Lý Thái Bạch bao giờ cũng là " mới ".

" Nói về văn thơ Thái Can, tôi tưởng phải hiểu chữ " mới " một cách hết sức rộng rãi.

Sau đấy Lê Tràng Kiều phân tích và mô tả cái mới cái cũ trong thơ Thái Can. Riêng về cái cũ, cái cổ điển ở Thái Can, Lê Tràng Kiều đã hạ những lời phê bình rất to tát :

" Nhất là nên hiểu chữ " mới " về phương diện tinh thần mà thôi. Về hình thức, thì ta thấy Thái Can chỉ " mới " một cách rụt rè, nhưng thực ra sánh với các nhà thơ cũ khác, thì Thái Can cũng đã là táo bạo lắm, có đủ những cái táo bạo để cho bọn này buộc tội, nội chỗ họ Thái nhất thiết không dùng lối gò chữ " đối ngẫu " là cái lối sở trường của một ông Trần Tuấn Khải, cũng đủ cho phái thơ cũ, họ không công nhận mình. Mà ngay cái lối tứ tuyệt là lối Thái Can thường dùng, cũng khác cái lối tứ tuyệt của nhà nho. Nó rộng rãi và phóng túng hơn nhiều.

" Nhưng ở Thái Can, còn có nhiều cái gì khác để lập cho họ Thái một cái địa vị riêng ở trong văn học sử nước nhà.

" Những nhà nho ở nước ta gần đây - ngay những người như Yên Đỗ, Tú Xương đều là những người học trò đã lạc bước của thầy. Tôi muốn nói rằng : trong sự cảm hứng của họ, không thấy phảng phất một tí dấu vết nào của Lý, Đỗ, là những bực thi thánh mà họ hết bực tôn sùng, có lẽ những nhà thi sĩ này chỉ giống họ Lý, họ Đỗ ở chỗ " uống ba trăm chén mà không hề ngừng " chỉ thế thôi ; điều này hình như vô lý, nhưng mà sự thực là như thế.

" Với Thái Can đời Đường sẽ sống lại, nói thế không phải là có ý bảo rằng : Thái Can chỉ là một kẻ học trò trung thành nhai lại một cách vô ý thức, cái hay, cái đẹp của họ Lý, họ Đỗ đã phun ra một lần rồi ".

Khen Thái Can là cái cầu bác vào dĩ vãng rồi, Lê Tràng Kiều ca ngợi ông đã đi vào sâu trong thế giới mới, làm công việc sáng tạo, chế biến ra cái mới.

" Không, Thái Can chỉ tìm cái nguồn cảm hứng của mình trong thơ Đường mà thôi, chứ Thái Can vẫn riêng có một cái tinh thần sáng tạo rất rõ rệt, rất chắc chắn.

Mà nói " sáng tạo " tức là nói " mới " vậy trong bài tựa cuối " Những áng thơ hay " tôi có bàn rằng : đã đến lúc nên xoá bỏ hai chữ thơ mới đi thôi.

Đọc thơ Thái Can ta thấy sự cần xoá bỏ ấy ; lại càng tha thiết, vì một bài thơ có sáng tạo tức là một bài thơ " mới " vậy.

" Sự thay đổi thi thể chỉ là một việc nhỏ, đưa lại cho thi văn ta một cái tinh thần sáng tạo đó mới là cái công lớn của các nhà thơ mới vậy. Họ đã sáng tạo, họ đã đưa lại cho thi văn ta một cái tinh thần sáng tạo, văn học sử còn đợi gì nữa mới ghi chú tên tuổi họ.

" Nhưng tôi cứ thuyết lý mãi như thế này thì ai tin ? Các bạn đọc hãy lặng im mấy phút. Trong cái im lặng của tâm hồn các bạn hãy để yên cho rơi vào từng giọt thánh thót, những tấm vỡ của tâm hồn nhà thi sĩ. Lặng im : vì những chị ấy là tiếng nói của nàng hoa, tiếng chân đi của cái xác thịt dã biến thành linh hồn, cái bóng thấp thoáng của ánh sáng ".

Sang phần hai, Lê Tràng Kiều trích thơ của Thái Can để biện minh cho những điều ông đã nói ở trên.

Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Nhược Pháp
Cũng ở trong tinh thần muốn là nhịp cầu thông cảm giữa cũ và mới và cũng ở trong chủ trương cho thơ hay không có cũ mới, sau khi " ẩy " Thái Can, Lê Tràng Kiều đã muốn " ẩy " Nhược Pháp vì ông cho Nhược Pháp gần Thái Can lắm. Thực vậy, ngày 27-5-36 (H.B. số 21), Lê Tràng Kiều viết về " Thơ mới Nhược Pháp " :

" Viết xong Thái Can, thì tôi liền nghĩ đến Nhược Pháp, cũng vì tôi không muốn đi từ sự đột ngột này qua sự đột ngột khác. Tôi chưa muốn nói về nội dung, về hình thức, tôi đã thấy Nhược Pháp và Thái Can gần nhau lắm : hai người đều " mới " một cách rụt rè như nhau, Thái Can thì thích lối thất ngôn, mà Nhược Pháp thì bình dị hơn nữa rất thích lối " ngũ ngôn ".

" Một sự bình dị về hình thức, tiêu biểu một sự bình dị về tinh thần " (H.B. số 21, 27-5-36).

Sau đấy, Lê Tràng Kiều lại cũng phân tích và mô tả những đặc tính của thơ Nguyễn Nhược Pháp, gồm có sự bình dị, trong sáng, nhí nhỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên :

" Nhược Pháp là một tâm hồn bình dị.

" Hơn thế nữa, một tâm hồn trong sáng, nhí nhỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong sáng như mây mùa Thu, nhí nhỏm như đôi chim nhẩy truyền ở trên cành, ngộ nghĩnh như cô gái Saigon, hồn nhiên như rầu sắng mới hái ở nguồn.

" Với một tài nghệ không có gì, Nhược Pháp đã dựng lại một thế giới : Ngày xưa.

" Ngày xưa, cái tên nó nặng nề biết bao đối với ông đồ nho ! Ta hãy tưởng tượng một thế giới mà từ nam chí bắc, từ già đến trẻ, từ kẻ đại phu đến kẻ dân cầy, từ tâm hồn vô tri của cậu học trò nhỏ đến cái ngọn tre vô giác kêu kẽo kẹt ở bên sông, cũng như nhuộm một tư tưởng nặng nề, âm u đen xám như cảnh tang vậy, cái tư tưởng ấy, là cái tư tưởng Khổng giáo, linh hồn cái thế giới ngày xưa...

" Thế giới ấy gặp Phương Tây, đã tan như một giấc mộng chỉ còn lưu lại những dấu vết rất mơ hồ càng ngày càng nhạt để một ngày kia mất hẳn.

" Giữa lúc ấy, có một người trẻ tuổi...- cố nhiên không phải một ông đồ nho - vào cái thế giới cũ ấy nồng nàn tha thiết như một kẻ phương xa nay trở về với cố hương.

" Người trẻ tuổi ấy là một nhà thi sĩ.

" Vì là thi sĩ cho nên chàng chỉ là ... thi sĩ với những vật liệu của một nhà thi sĩ chàng dựng lại cái thế giới " ngày xưa ".

" Ngày xưa, đứng dậy.

" Ngày xưa " đã cởi bỏ cái bộ đồ tang phục của mình.

" Ngày xưa " đã rũ sạch những tư tưởng nặng nề của Khổng giáo.

" Với Nhược Pháp, cô gái " ngày xưa " đã biết cười, một nụ cười nửa miệng. Ô, duyên thầm tệ !

...Ta ngồi bên tảng đá
Mơ lều chiếu ngày xưa
Mơ quan nghè, quan Thám
Đi có cờ lọng đưa.
Rồi bao nàng yểu điệu
Ngấp nghé bay trên lầu,
Vừa leng keng tiếng ngựa,
Lẹ gót tiến gieo cầu.
Tay vơ cầu ngũ sắc
Má quan Ngè hây hây
Quân hầu reo chuyển đất
Tung cán lọng vừa quay.
Trên lầu mấy thị nữ
Cùng nhau rúc rích cười,
" Thưa cô đừng thẹn nữa
Quan Nghè trông lên rồi.
                   (Tay ngà)
Thật là ngây thơ và thật là giản dị.

" Ngây thơ không phải là khờ dại, không biết gì ; biết nhưng mà vẫn ngây thơ như thường ".

Lê Tràng Kiều ca ngợi Đông Hồ
Sau khi đã đẩy hai nhà thơ mới, rất mới mà lại có duyên rất nhiều với thơ cũ ra chiến trường, để minh chứng thơ mới là hay là đẹp, Lê Tràng Kiều đã làm một công việc phũ phàng, tai ác hơn thế là đẩy ra mặt trận một nhà thơ cũ, đã như " về hàng thơ mới " và được thơ mới đón nhận, tiếp rước linh đình. Người thi sĩ cũ đã bỏ hàng ngũ ấy là Đông Hồ (H.B. số 22, 3-6-36).

Lê Tràng Kiều đã mô tả rất tỉ mỉ sự lột xác của nhà thơ cũ Đông Hồ, một sự lột xác kỳ diệu, quái gở :

" Đọc hết thơ Đông Hồ, từ quyển " Thơ Đông Hồ " do Nam Kỳ xuất bản cho đến những bài thơ rải rác đăng các báo gần đây, ta nhận thấy sự thay đổi lạ lùng - tôi toan nói một cuộc cách mệnh vĩ đại - ở trong tâm trí, ở trong tâm tình, ở cái cách cảm xúc cũng như ở cái cách phô diễn của nhà thi sĩ.

" Thật có thể như thế được ư ?

" Cái mà người ta gọi là cái tài đó - cái phần thiêng mà trời riêng phú cho những con cưng của mình là các nhà thi sĩ đó - cái ấy nhất đán có thể thay đổi, có thể chịu ảnh hưởng một sức mạnh nào mà thay đổi được ư ? như vậy tức là tự mình tạo ra cho mình một cái " tài " được ư ? Như vậy là không có cái quyền nào là cái quyền của tạo hoá nữa ư ?

" Thật là một điều không thể tin được.

" Nhưng khi ta theo bên cạnh Đông Hồ, dò xét từng ly, từng tý, những cái triệu chứng phát ra ngoài, ta thấy ngay có một sự thay đổi ở trong, sự thay đổi giống như sự biến hoá của một con tằm, con tằm " Đông Hồ " đã ăn dối, đã nhả tơ, đã " kéo kén ", đã hoá thành " nhộng " và tưởng đã vô dụng rồi. Nhưng không ngờ con " nhộng " ấy, một ngày kia, trên lưng mọc lên những chiếc cánh nhẹ : nó bay được. Nó là là ở giữa vùng hoa lá xanh tươi, nhởn nhơ dưới bóng nắng. Nó là con bươm bướm của các cô thiếu nữ thân yêu...

" Nhà thi sĩ Đông Hồ đã trẻ lại.

" Đông Hồ ngày trước là một ông (cụ non) lụ khụ, bệ vệ, đạo mạo - chỉ còn thiếu một bộ râu nữa, thì nhà thi sĩ của chúng ta đã là một ông lão hoàn toàn.

" Cái ông Đông Hồ ấy, trong chúng ta ai là chẳng biết. Ai có đọc qua những bài thơ của ông ở tạp chí Nam Phong, ai có đọc qua cuốn thơ Đông Hồchắc cũng phải nhận điều tôi nói đây, quả không ngoa chút nào. Nói ra thì mất lòng, chớ sự nghiệp của ông về trước, chỉ là con zéro to ".

Lê Tràng Kiều đã chê bai, khinh thường nhà thơ cũ Đông Hồ bao nhiêu thì lại say mê nhà thơ mới Đông Hồ bấy nhiêu :

" Thử hỏi ông đã làm được cái gì, ông đã sáng tạo ra được cái gì gọi là đặc sắc của ông, khả dĩ sau này còn có người nhắc đến tên ông ? Ngoài những bài thơ thù tạc, đi lại, nay tặng cho ông Đồ Nam, mai tặng cho ông Tùng Vân. Ngoài những câu sáo về thời thế, về nhân sinh, về vũ trụ mà ông " phỏng " của Tô Đông Pha, của Bạch Cư Dị vân vân...Ngoài những thứ không đáng kể ấy, mà tôi không nhắc lại đây, ông đã làm được gì ? Thỉnh thoảng cũng có một đôi câu " được " mà đôi câu " được " ấy, không đủ tỏ ra rằng : ông là một thi sĩ có tài. Có người bảo " thơ Đông Hồ " không có hồn, và Đông Hồ chỉ là một anh thợ ghép vần khéo. Thật trước kia, tôi cũng không nghĩ khác người ấy. Muốn chứng điều ấy ra đây, tôi tưởng không khó gì. Nhưng ta hãy để yên cho dĩ vãng, hơi đâu xới lại đống tro tàn.

" Vì Đông Hồ ngày nay là một người khác rồi ! "

Như vậy, dưới mắt Lê Tràng Kiều, Đông Hồ chẳng phải chỉ đổi khác mà còn đổi giống : đang là một ông lão, Đông Hồ đã được giải phẫu thành một cô gái trẻ đầy duyên dán ; chính Thơ Mới đã làm cuộc giải phẫu thành công ấy. Còn gì chua chát cho thơ cũ hơn nữa !

" Đông Hồ ngày nay là mùa xuân, là " cô gái xuân ", là con bướm trắng, là " cái hôn đầu tiên ", là tình yêu, tình yêu trẻ trung, đẹp đẽ, ngây thơ với bao nhiêu cái đức tính và đặc tính của tuổi trẻ.

" Bác sĩ Voronofb đã " ghép hạch " cho thi sĩ Đông Hồ.

" Bác sĩ Voronofb ấy chẳng ai khác là cái Phong trào mà người ta đã quen gọi là " thơ mới ". " Thơ mới " như một làn khí xuân nhuộm tươi cái huyết đen chạy ở trong toàn thân nhà thi sĩ... " thơ mới " sẽ thành một danh từ thừa, nhưng có lúc nó đã biểu hiệu cho một cuộc cách mệnh có thực, cuộc cách mệnh ấy đã đưa lại cho ta những bài thơ có giá trị, hơn thế nữa, nó đưa lại cho ta một tinh thần sáng tạo mới, một cách cảm xúc mới, một cách phô diễn mới - nói tóm lại, là : một quan niệm mới và một nghệ thuật mới. Cái quan niệm mới ấy về thi ca, đã giúp cho biết bao thi sĩ biểu lộ được hết cái tài của mình - nếu như quả là có tài thật.

" Trái lại, thơ cũ, với những khuôn khổ bó buộc với một quan niệm hẹp hòi đã dìm biết bao là cái tài.

" Biết bao thi sĩ đã ngẩng đầu không nổi dưới cái làn không khí nặng nề ấy.

" Bảo rằng : Đông Hồ là một người không có tài thì thật là vô lý, nhưng bảo rằng cái tài ấy không nẩy nở được ở trong cái hoàn cảnh cũ, thì đó quả là một sự hiển nhiên không một nhà phê bình nào, mà ngay cả tác giả nữa cũng không thể chối được...

" Cái tài của Đông Hồ đến nay mới phát triển kể cũng đã chậm lắm. Nhưng là một sự rất hiếm có ở trong lịch sử thi ca, và còn cái thú nào hơn, là khi người ta quá thì rồi mà bỗng được " xuân " lại như gái 15, 16, đó, tôi tưởng là một cách làm cho cái ngày Xuân thêm dài, cái ngày xuân mà biết bao thi sĩ thương hay tiếc. Vì mỗi khi ngày ấy đi qua, nhà thi sĩ đương nhắm mắt lại để lặng hưởng cho hết cái thanh thú, thì nó đã vụt đâu rồi... khi bừng mở mắt ra.

" Cái " ngày xuân " ấy đã trở về với nhà thi sĩ " (H.B. số 22).

Thật là với trường hợp Đông Hồ, Lê Tràng Kiều đã đánh vào thơ cũ một đòn nặng nề : tác giả bài thơ mới Đông Hồ xem ra khoái trá về việc điều khiển mặt trận chống thơ cũ mà có Đông Hồ trợ chiến.

Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Vỹ
Để bênh vực cho thơ mới, Lê Tràng Kiều đã dùng một tên lính khá nguy hiểm, tên lính khá nguy hiểm ấy là Nguyễn Vỹ. Thực vậy, Nguyễn Vỹ là một nhà thơ mà làng thơ cũ ghét cực điểm đã dĩ nhiên rồi bởi vì ông mới lắm, mới quá nữa. Khốn nỗi Nguyễn Vỹ cũng bị làng thơ mới chối bỏ, không chịu cho Nguyễn Vỹ nhập tịch. Vậy mà Lê Tràng Kiều cứ đưa Nguyễn Vỹ ra làm lính để bênh đỡ thành trì thơ mới, cho Nguyễn Vỹ nhập đoàn quân tấn công thơ cũ.

Ngày 10-6-36 (H.B. số 23), viết bài thơ mới Nguyễn Vỹ, Lê Tràng Kiều đã phản đối Thế Lữ để bênh Nguyễn Vỹ. Lê Tràng Kiều bảo Nguyễn Vỹ có nhiều câu thơ không hay, nhiều bài thơ không ra gì, nhưng tất cả sự nghiệp thơ mới của Nguyễn Vỹ chẳng phải chỉ có như vậy mà thôi...

" Kể bây giờ mà mới nói Nguyễn Vỹ đã là chậm lắm rồi, người ta nói đến Nguyễn Vỹ nhiều lắm, nhiều quá...

" Chỉ một cái được người ta nói tới nhiều, cũng đủ vinh dự cho nhà thi văn, vì vô duyên nhất, đau đớn nhất cho kẻ hao tổn không biết bao tâm trí, biết bao thời giờ, để làm nên một bài thơ, in lên một cuốn sách mà không ai nói tới. Đã đành rằng những lời nói tới đó, chẳng đẹp lòng ông Nguyễn Vỹ, nhưng...người ta công kích ông ta, chỉ chứng rằng ông ta sống...

" Thơ ông Nguyễn Vỹ đã là một cái đầu đề để cho người ta viết, một câu chuyện cho người ta bàn, thơ Nguyễn Vỹ đã sống một cách đầy đủ ở trên mặt các tờ báo "...(H.B. số 23, 10-6-36).

Theo Lê Tràng Kiều, Thế Lữ công kích Nguyễn Vỹ có lẽ chỉ vì lòng ganh ghét vì cùng là thi sĩ như nhau :

" Quyển " Tập thơ đầu " mới ló đầu ra đã bị ông Lê Ta ở báo Phong Hoá, công kích một cách tàn tệ...cũng lại chỉ vì cái lẽ ông Lê Ta (Thế Lữ) cũng làm thơ mà ông Nguyễn Vỹ cũng làm thơ đó thôi. Chứ công kích như kiểu ông Lê Ta trong cái thời kỳ văn học đương phôi pha này, có nhà văn nào, có tác giả nào là không đáng công kích ? Cứ theo cái phương pháp phê bình của ông Lê Ta, thì ông Thái Can, ông Lê Trọng Lư, ông Huy Thông, ông Thế Lữ trong các văn thơ của các ông ấy, ta cũng thấy nhan nhản những điều đáng công kích. Phê bình mà chỉ tìm cái kém, cái dở, chưa hẳn là phê bình. Một nhà phê bình có tiếng đã nói :" Cố ý để mà hiểu lấy tác giả...Vì lẽ rằng : không có cái gì hoàn toàn ở đời này, ta hãy tìm lấy ở trong cái thiếu kém một viên gạch, một miếng vôi để mà góp vào sự xây dựng cái toà lầu Nghệ thuật, cái toà lầu ấy không thể do độc lực một người mà xây nổi, vì nó phải dầu dãi nhiều mưa gió, chịu sự vùi dập của bao thế kỷ. Cái toà lầu ấy phải là công xây dựng của Quá khứ, của Hiện tại, của Tương lai ".

" Ông Nguyễn Vỹ chẳng hạn, đưa lại cho sự xây đắp ấy, một mảnh vôi nhỏ, cũng đã là nhiều lắm rồi. Ta có cần gì hơn nữa ở họ một sự hoàn toàn không bao giờ có. Thật là không biết người biết của vậy ! Giả như tôi đưa mấy quyển " Mấy vần thơ " của ông Thế Lữ, tôi bỏ ra ngoài vài ba bài " được ", rồi tôi cứ đưa những bài " lủng củng lủng ca " đầy dẫy ở trong sách, ra mà bắt mà bẻ (điều ấy khó gì mà không làm được), thì chừng ấy ông Thế Lữ còn gì mà lên mặt " thi sĩ " với đời.

" Ai đã thấy Nguyễn Vỹ một lần rồi, đã có gặp ông ấy một lần nào ở trong cái nhà ấy, thì sẽ không ngạc nhiên chút nào, khi thấy văn thơ của ông ấy nhiễm đầy một vẻ buồn thảm não nùng ! cái cuộc đời buồn thảm của ông đi qua, để lại ở trên cái mặt ông cũng như ở trong thơ văn của ông, những nếp răn, những nếp răn đã thành cái dấu hiệu cho ông ở trong đám người chen chúc ở chợ trần đám người mà ông đem lòng khinh thị không bờ bến...

" Cứ một hôm, lối 9-10 giờ đi qua xóm Khâm Thiên, vừa khỏi phố cô đào rực rỡ ánh điện, và lộng lẫy như cô tiên, gần đến Ô chợ dừa, ta ngẩng lên sẽ thấy có một cái gác nhỏ...mù mờ ở dưới một ngọn đèn liu hiu, trong cái gác ấy có một cái bóng đen đi đi lại lại, cầm một cái que gõ vào tường như muốn làm nẩy ở trong cái vật vô tri, một cái tư tưởng linh động, mấy câu thơ, mấy cái linh hồn.

" Cái bóng ấy là cái bóng của một thi sĩ.

" Cái que ấy là cái quản bút thân yêu của thi sĩ.

" Cái gác nửa sáng nửa tối ấy là cái tâm hồn thi sĩ.

" Cái tâm hồn ấy là một bể sầu não, những " giọt thơ "từ đấy rơi ra là những giọt sầu não, những tư tưởng ở đấy bay ra đều có đôi cách đen, đen một mầu đen thảm đạm, như đôi cánh quạ.

" Con quạ đen ấy đã hơn một lần, đưa sự buồn não cho thi sĩ, chính ngay lúc thi sĩ đương triền miên trong giấc mộng ái tình,

Lần đầu hai ta hôn nhau
Đứng so đôi trên cành dâu
Một cặp bồ câu trắng gáy
Em buồn...và em ngẩn ngơ
Hỏi anh... " mình yêu em ơi
Ngày ta yêu nhau được mấy ?
Hai ta yêu nhau lần đầu
Lần đầu hai ta hôn nhau.
Một cặp bồ câu trắng gáy.
Ái tình ru bên tai ta.
Ta sẽ yêu nhau đến già.
Như cặp bồ câu trắng ấy...
                 (Tiếng quạ kêu)
Sau khi đã công kích Thế Lữ (ngày 10-6-36) để bênh vực NguyễnVỹ, thì một tuần sau, ngày 17-6-36 (H.B. số 24) Lê Tràng Kiều lại viết bài cực tán Thế Lữ và đẩy Thế Lữ ra mặt trận. Kể ra Lê Tràng Kiều đã biết dụng binh cho nên việc tấn công vào thành trì thơ cũ lần này được coi như là thanh toán chiến trường.
Lê Tràng Kiều ca ngợi Thế Lữ
Tuy chẳng dám ngạo nghễ đặt Thế Lữ ngang hàng với Nguyễn Du trên mọi địa hạt, Lê Tràng Kiều cũng muốn ví Thế Lữ với Nguyễn Du ở một ít điểm.

" Trước đây, phê bình ở trong báo Tràng An, có người nói một câu rằng :" Tài nghệ của hai người (Nguyễn Du và Nguyễn Thế Lữ) vị tất đã có hơn kém " làm cho nhiều nhà thơ cổ phải bỉu môi...

" Cố nhiên là Nguyễn Thế Lữ không thể phun ra được những câu :

Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành mỉa mai...
Hay là :
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha...
" Cố nhiên là Nguyễn Thế Lữ còn xa lắm, hay là không bao giờ viết ra được những câu nhẹ nhàng bay bổng, những câu thơ như có đôi cánh nhẹ, bay là lượt ở trên đám ruộng mạ xanh trong một cảnh chiều xuân êm và trong như mộng.

" Cố nhiên là ta không bao giờ khờ khạo đến nỗi đặt ông Nguyễn Thế Lữ ngang hàng với ông Nguyễn Du, nhưng ta có thể so sánh mà không ngượng, ông Thế Lữ và Nguyễn Du ít nhất về một phương diện " (H.B. số 24, 17-6-36).

Lê Tràng Kiều muốn so sánh với Nguyễn Du nghệ thuật tả tiếng, bắt chước âm thanh tự nhiên của Thế Lữ. Ông trích và đối chiếu thơ tả âm thanh của hai nhà thơ :

" Ở đây, tôi muốn so sánh những câu thơ tả " tiếng " ở trong mấy vần thơ và ở trong " truyện Kiều ". Tôi xin chép hết ra đây để cho độc giả đối chiếu :

Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
                   (Kiều)

Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn giây đổ máu, năm đầu ngón tay
Ve kêu vượn hót vào tay...
. . . .
Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đượm ấm dương hoà
Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế, hay mình Đỗ Quyên
Trong sao châu rõ ghềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông.
                   (Kiều)

Theo chim tiếng sáo lên khơi
Lại theo giòng suối bên người tiên nga
Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không
Thiên Thai thoảng gió mơ mòng
Ngọc Trân buồn tưởng tiếng lòng xa bay...
                   (Tiếng sáo Thiên Thai)

Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay...gió quyến...mây bay...
Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may...
                   (Tiếng trúc tuyệt vời)

Trong khi lật đật rẻo sông Mê
Trận gió heo may, đuổi nhạn về...
Bụi cuốn, đường xa, chinh khách mỏi
Bỗng nghe tiếng hát vẳng bên kia
Tiếng hát trong như nước Ngọc Tuyền
Êm như hơi gió thoảng cung tiên
Cao như thông vút buồn như liễu
Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên...
                   (Tiếng hát bên sông)

Vất hết những thành kiến trong óc, cứ bình tĩnh mà đọc những đoạn thơ trên, chắc ai cũng phải nhận rằng : Cái tài nghệ của Thế Lữ về một phương diện này quả không kém Nguyễn Du là mấy.

" Nếu tiếng sáo của Thế Lữ kém thâm trầm réo rắt, thì nó lại " lơ lửng " " véo von " hơn...ta đọc những câu :

Khi cao vút tận mây mờ
Khi buồn vắt vẻo bên bờ cây xanh
Hay là :
Cao như thông vút, buồn như liễu.
. . . . . . .


" Thì ta thấy cái " tiếng " là cái vô hình, trở nên có hình có bóng, khi bay vụt lên cao, khi lưởn vưởn giữa đám cây bên bờ...Thơ như thế mới thật là hoạt...vậy.

" Không những " tiếng " cỏ cây, mây nước, những vật vô tri vô giác, thì sẽ đã khéo làm cho linh động như con người ta.

" Nhưng câu :

Mây hồng dừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Làm cho ta phải nhớ đến cái nghệ thuật tả cảnh của Chateaubriand trong bài " Đêm ở rừng Mỹ ". Trong bài ấy, những dòng sông, bóng trăng, cây cối " hoạt động " một cách lạ thường khiến cho ta đương ở trong cái rừng sâu tịch mịch mà không thấy tịch mịch chút nào...(H.B. số 24).

Sau khi mải mê đi theo Thế Lữ người tiến dẫn mình vào thế giới tiên, Lê Tràng Kiều đã quay trở lại trần để đi theo Vũ Đình Liên dẫn ông đi vào dĩ vãng, vùi mình trong những cảnh đổ vỡ hoang tàn. Thật vậy, Lê Tràng Kiều đã giới thiệu thiên tài mới Vũ Đình Liên trong việc làm sống lại dĩ vãng, làm sống lại những hình ảnh điêu tàn.

Lê Tràng Kiều ca ngợi Vũ Đình Liên
Để làm nổi cái điêu tàn rã rời mà Vũ Đình Liên đang cố vẽ lên trên lụa, Lê Tràng Kiều đem so sánh Vũ Đình Liên với Nguyễn Nhược Pháp :

" Nếu có nhà thi sĩ khêu gợi lại những cái nhí nhỏm, ngộ nghĩnh của cái thế giới cũ như Nguyễn Nhược Pháp thì cũng phải có một nhà thi sĩ như Vũ Đình Liên đưa ta về cái dĩ vãng thân yêu, đầy tuyết đẹp sương trong, đầy lá thu và hoa xuân, đầy những dịu dàng và êm ái.

" Những bức tranh xưa ấy do nhà thi sĩ phác họa ra treo trên vách trong cái tòa lầu mới mẻ ngày nay để làm gì, - nếu không phải để cho người ta những nỗi nhớ nhung, mến tiếc, mến tiếc hão huyền, mà đã từng phải tổn hao biết bao giọt lệ thắm.

" Với Nhược pháp, miệng ta chỉ muốn mỉm một nụ cười hồn nhiên.

" Với Vũ Đình Liên...thì thấy buồn buồn một cách buồn man mác, có khi réo rắt nữa, như buổi chớp choáng ta nhìn những núi sông lờ mờ ở trên trời xa, đương biến hình đổi dạng.

" Ta thấy ta nhớ những cảnh cũ niềm xưa...Ta thấy ta là một kẻ mãi bước giang hồ, chợt nhớ đến cảnh quê hương.

" Quê hương ! cả một dĩ vãng ở trong ấy đã êm đềm sống những tâm hồn mộc mạc và hồn nhiên cả cái thế giới của cha ông ta đó chẳng phải mới thực là cái quê hương của những bọn chúng ta còn sống sót ngày nay. Sống một cách chật vật giữa những cái thực trạng mới mẻ mà khô khan tựa hồ như là ty tiện nữa, vì là vật chất, những cái thực trạng do Âu tây mang lại.

" Trong lúc tâm hồn ta cuốn theo làn sóng Âu tây, làn sóng, than ôi ! không biết còn đẩy ta đến chỗ nào nữa, mà được trong giây lát, đứng im lặng để hồi tưởng cái dĩ vãng đã xa mờ thì cái giây lát ấy nó thành kính, nó long trọng, nó ý nghĩa biết bao, hơn thế nữa, nó cho ta một luồng mát mẻ làm rơi cả tâm hồn,

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết đi đâu ?
Giấy đỏ, buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Ông Đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy.
Ngoài giời mưa bụi bay.
                    (Ông Đồ)
Ta cảm thấy cả một thế giới điêu tàn đã rời rạc, đổ vỡ... "(H.B. số 26).
Lê Tràng Kiều ca ngợi Lưu Trọng Lư
Cuối cùng ngày 29-7-36 (H.B. số 30), Lê Tràng Kiều đã dành cho nhà thơ yêu dấu của ông một sự giới thiệu đặc biệt : Lưu Trọng Lư, người chiến sĩ cuối cùng được đẩy ra trận để dọn dẹp chiến trường. Có lẽ không ai chiếm trọn vẹn cảm tình của Lê Tràng Kiều như Lưu Trọng Lư. Lê Tràng Kiều đã chọn Lưu Trọng Lư để trả lời phái thơ cũ ở điểm mà họ từng công kích thơ mới mạnh mẽ nhất : thơ mới không có âm điệu. Lê Tràng Kiều lặp lại luận điệu của phe bênh thơ cũ thường kết án thơ mới :

" Những người phản đối thơ mới đều nói một cách hồ đồ : " Thơ mới là một thứ thơ không niêm, không luật, đọc lên nghe " lủng ca lủng củng ", rồi họ kết luận : Thơ mà không có âm điệu là thơ bỏ đi, vâng, thật có thế ! Nhưng " thơ mới " đâu phải như lời họ nói - là thứ thơ không có âm điệu. " Thơ mới " có âm điệu lắm chớ. Nhưng là một thứ âm điệu riêng, khác hẳn âm điệu của thơ Đường, của Lục bát, của Song thất lục bát. Âm luật của một thứ tiếng rất là dồi dào, và huyền diệu, ai bảo rằng ngoài điệu Đường luật, Lục bát, Song thất lục bát, không còn có nhiều điệu khác nữa, những điệu vô danh mà hữu thực, lại rất hợp với sự tiết tấu thiên nhiên của thanh âm ?...

Chẳng qua vì trước kia người ta không nghĩ tới, cho nên người ta bảo là không có mà thôi ".

Lê Tràng Kiều cho rằng muốn chứng tỏ thơ mới có âm điệu hẳn hoi, mà thường khi còn là âm điệu du dương, réo rắt, không gì bằng lấy thơ Lưu Trọng Lư ra mà làm chứng. Vì không quá khích nên Lưu Trọng Lư đã dung hoà và thừa hưởng tất cả âm điệu cũ mới, cổ kim, Lê Tràng Kiều viết :

"Lưu Trọng Lư chính là một người đầu tiên gieo hạt.... " Thơ mới "  vào đất Bắc. Trong một số mùa xuân của báo Phong Hoá lần đầu Lưu quân cho đăng mấy bài thơ của mình...rồi từ đó, mỗi kỳ luôn luôn trên mặt báo ấy người ta thấy đăng những bài của Nguyễn Thế Lữ, của Tân Việt và của Vũ Đình Liên. Độc giả làm quen với Thế Lữ dần dần quên lãng Trọng Lư. Điều ấy rất dễ hiểu, vì bao giờ người ta cũng thích những cái thái quá hơn là những cái vừa chừng...Người ta ưa " thơ mới " người ta lại ưa cho thật " mới ". Cứ bình tĩnh mà xét thơ Trọng Lư không phải là không mới, nhưng cái mới ở trong thơ " Trọng Lư " rất khó nhận vì nó mới ở tình cảm, ở âm điệu, ở hình ảnh (images), thơ Thế Lữ, thơ Huy Thông thì phần nhiều " mới " ở tư tưởng, ở ý tứ " mới " một cách rõ ràng hơn, " mới " một cách táo bạo.

" Thơ Trọng Lư thì những ý tưởng cũ biết pha vào điệu mới, nó cũng còn có nghĩa và cảm người ta một cách mới mẻ. Vì thế Lưu Trọng Lư chú trọng phương diện âm điệu hơn các phương diện khác ví dụ như bài " Bên thành " mà tôi chép lại đây :

Bên thành con chim con
Hát nỉ non.
Giục lòng em bồn chồn
Buổi hoàng hôn.
Em trách gì con chim con ?
Em oán gì con chim con ?
Em chỉ hận
Sao em ngớ ngẩn
Đã để tình lang em lận đận
Chốn xa xôi...
Nơi tuyệt vời...
Trong lúc con chim giời
Bên em nó hót những lời
...nước non...
" Về ý tưởng thì không có gì đặc sắc lắm, tình cảm thì không có gì sâu xa lắm, bài này ta sở dĩ đọc thích là vì nó có một cái điệu mới, một cái điệu riêng, một cái điệu ngộ.

" Cái điệu ngộ ấy, ta thấy hầu hết trong những bài thơ của Lưu Trọng Lư (H.B. số 30).

" Thường thường người ta không hiểu được họ Lưu là vì hồn nhà thi sĩ như chỉ bàng bạc, phưởng phất trong cái thế giới vô hình : trong một hơi thở, trong bóng trăng mờ, trong một vài vong hồn hay là những cái nhỏ nhặt quá mà mắt người thường bỏ qua...anh bước nặng, anh hát lớn, anh sẽ không bao giờ tìm nhà thi sĩ động mạnh, là hồn nhà thi sĩ sẽ tan ngay.

" Cũng đồng tả tiếng, mọi thi sĩ thì thích những tiếng đàn sáo thâm trầm, réo rắt, làm rung chuyển cả tâm hồn. Trọng Lư thì riêng thích " những tiếng " rạo rực, ríu rít những tiếng mà người thường không nghe thấy...

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Em không nghe rạo rực :
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc :
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?
               (Tiếng thu -I.H.)
Những tiếng mà chúng ta không nghe, đều lọt vào tai nhà thi sĩ ? Xưa nay, trong văn chương Tàu và ta có mấy ai dám tả " tiếng thổn thức " của trăng mờ ?

" Ai dám bảo rằng :" Cái hình ảnh của người chinh phụ lại " kêu rạo rực " ở trong lòng người cô phụ ? Ai dám tả mùa thu, bằng " tiếng kêu xào xạc " của chân một con nai ngơ ngác đạp lên trên những lá khô ?

" Ta có thể nói rằng : đây là một bức tranh phả vào một khúc nhạc, hay là một khúc nhạc vẽ thành một bức tranh...Đọc bài thơ này, ta không còn phân biệt được Thơ...Hoạ và Nhạc...nữa ? "



Trở Về   ]